Đất được nhà nước giao sau khi chồng mất là tài sản chung hay tài sản riêng. Quy định về tài sản chung và tài sản riêng của vợ và chồng.
Đất được nhà nước giao sau khi chồng mất là tài sản chung hay tài sản riêng. Quy định về tài sản chung và tài sản riêng của vợ và chồng.
Tóm tắt câu hỏi:
Xin chào luật sư! tôi có 1 câu hỏi xin đươc luật sư giải đáp.Bố tôi mất năm 1962. đến năm 1990 mẹ tôi được nhà nước giao đất theo nghi quyết 10( khoán 10) trong giấy chứng nhận ghi 1 thửa là 300 m vuông đất ở( đất do ông cha để lại) 1 thửa ghi đất kinh tế hộ gia đình xin hỏi thửa đất được nhà nước giao sau khi bố tôi chết được xác định là tài sản chung của bố mẹ hay tài sản riêng của mẹ tôi ? xin cảm ơn!?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý:
Luật hôn nhân và gia đình 1986
Luật hôn nhân và gia đình 2014
2. Nội dung tư vấn:
Tại Điều 14, Điều 15 và Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình 1986 quy định về tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng như sau:
“Điều 14
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được cho chung.
Điều 15
Tài sản chung được sử dụng để bảo đảm những nhu cầu chung của gia đình.
Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung. Việc mua bán, đổi, cho, vay, mượn, và những giao dịch khác có quan hệ đến tài sản mà có giá trị lớn thì phải được sự thoả thuận của vợ, chồng.
Điều 16
Đối với tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc được cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thì người có tài sản đó có quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng”.
Hiện nay, Luật hôn nhân và gia đình hiện hành có quy định cụ thể hơn về tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng. Căn cứ tại Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về tài sản chung của vợ chồng như sau:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”.
Tại Điều 43 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về tài sản riêng của vợ, chồng như sau:
– Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật hôn nhân và gia đình 2014; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
– Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật hôn nhân và gia đình 2014.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân qua tổng đài: 1900.6568
Ngoài ra, tại Điều 66 Luật hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về việc giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết:
– Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.
– Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.
– Trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy định của Bộ luật dân sự.
– Tài sản của vợ chồng trong kinh doanh được giải quyết theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 66 Luật hôn nhân và gia đình 2014, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác.
Theo như thông tin anh cho biết, bố anh mất năm 1962 nhưng đến năm 1990 mẹ anh mới được nhà nước giao đất. Như vậy, trong trường hợp này để xác định phần đất được giao là tài sản chung hay tài sản riêng, ta xét hai trường hợp sau:
Trường hợp 1: Nhà nước giao đất cho hộ gia đình
Tại Đoạn 1 Điều 1 và Đoạn 1 Điều 28 Luật Đất Đai 1987 quy định như sau:
“Nhà nước giao đất cho các nông trường, lâm trường, hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, xí nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân-dưới đây gọi là người sử dụng đất-để sử dụng ổn định, lâu dài.
Các hộ nông dân cá thể được Nhà nước giao đất ổn định, lâu dài để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp trên cơ sở đất đai đang sử dụng”.
Như vậy, trong trường hợp này, bố anh mất năm từ năm 1962 thì theo quy định của khi một người chết thì quan hệ thân nhân cũng như quan hệ tài sản sẽ chấm dứt. Vì vậy, việc Nhà nước giao đất ở đây là giao đất theo hộ gia đình nên phần đất được giao là thuộc sở hữu chung của hộ gia đình, bao gồm thuộc sở hữu chung của mẹ anh và các con.
Trường hợp 2: Nhà nước giao đất cho cá nhân
Trong trường hợp, nếu Nhà nước tiến hành giao đất cho cá nhân thì phần đất được Nhà nước giao sẽ thuộc sở hữu riêng của mẹ anh. Trong trường hợp này, bố anh mất năm từ năm 1962 thì theo quy định của khi một người chết thì quan hệ thân nhân cũng như quan hệ tài sản sẽ chấm dứt. Vì vậy, phần đất được Nhà nước giao trong trường hợp này được xác định là tài sản riêng của mẹ anh.