Đặc điểm quyền nhân thân đối với hình ảnh. Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình, gắn liền với quyền nhân thân.
Điều 31 “Bộ luật dân sự 2015” quy định:
“Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác. Nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh”.
Pháp luật không quy định cụ thể thế nào là quyền nhân thân đối với hình ảnh nhưng theo quy định trên thì có thể hiểu quyền nhân thân đối với hình ảnh là quyền nhân thân gắn liền với cá nhân liên quan đến việc tạo dựng, sử dung và cho phép sử dụng hình ảnh theo ý chí của cá nhân đó.
Thứ nhất, quyền nhân thân đối với hình hình ảnh là quyền nhân thân không gắn với tài sản. Đây là đặc tính cơ bản để phân biệt quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền nhân thân không gắn liền với tài sản.Về bản chất quyền nhân thân đối với hình ảnh chỉ mang lại giá trị tinh thần cho mối cá nhân có hình ảnh.Mỗi chủ thể được công nhân một cách vô điều kiện với quyền nhân thân gắn với hình ảnh, quyền này không phải là tài sản để có thể đem ra giao dịch.Tuy nhiên hiện nay trên thực tế thì nhiều cá nhân đang sử dụng hình ảnh của mình để định giá bằng tài sản.Như hiện nay có rất nhiều người mẫu, diễn viên…có sức ảnh hưởng đối với công chúng được các công ty sử dụng hình ảnh của họ để làm người mẫu độc quyền cho một nhãn hàng, một sản phẩm nào đó và được công ty trả một khoản tiền nhất định.Mặc dù như vậy nhưng xét về mặt pháp lí thì quyền cá nhân đối với hình ảnh là quyền nhân thân không gắn liền với tài sản.Quyền nhân thân đối với hình ảnh được công nhận đối với mọi cá nhân một cách bình đẳng và suốt đời, không phụ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế, địa vị xã hội hay mức đọ tài sản của người đó.
Thứ hai quyền nhân thân đối với hình ảnh là quyền cá biệt hóa chủ thể. Cùng với các quyền nhân thân gắn liền với họ tên và dân tộc thì quyền nhân thân đối với hình ảnh thuộc quyền cá biệt hóa cá nhân. Đây là quyền nhân thân tuyệt đối, gắn liền với bản thân cá nhân đó. Đây là những quyền nhân thân ghi nhận những đặc điểm của mỗi cá nhân trong quan hệ xã hội nói chung và trong quan hệ dân sự nói riêng. Quyền cá biệt hóa chủ thể được thể hiện dưới hình thức các công cụ cá biệt hóa khác nhau ở mỗi chủ thể. Tập hợp các công cụ cá biệt hóa đó ở mỗi chủ thể sẽ cho ra sự hình dung bên ngoài về chủ thể đó khác biệt với các chủ thể khác.
Thứ ba, quyền nhân thân đối với hình ảnh là quyền được bảo hộ vô thời hạn.Quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân được pháp luật ghi nhận và bảo hộ vĩnh viễn. Khi chủ thể không còn nữa thì những người có liên quan được quyền yêu cầu bảo vệ khi có hành vi xâm phạm. Cụ thể tại khoản 2 Điều 31 “Bộ luật dân sự 2015” quy định như sau :
“Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác”.
Như vậy khi còn sống nếu như việc công bố hình ảnh mà không được sự đồng ý của họ vì sẽ ảnh hưởng trức tiếp đến lợi ích của họ thì pháp luật vẫn bảo vệ quyền đối với hình ảnh cho cá nhân đã chết. Tuy nhiên trường hợp nếu muốn thu thập, công bố hình ảnh của cá nhân khi cá nhân đó đã chết thì phải được sự đồng ý cha, me, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện.
Thứ tư, quyền nhân thân đối với hình ảnh là quyền được bảo vệ khi có yêu cầu.Có nghĩa là pháp luật chỉ bảo vệ quyền nhan thân đối với hình ảnh của cá nhân khi quyền đó bị xâm phạm và có yêu cầu của người bị ảnh hưởng về quyền và lợi ích hợp pháp.
>>> Luật sư
Thứ năm, quyền nhân thân đối với hình ảnh thuộc nhóm các hành vi tác động vật phẩm liên quan đến quyền. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân một cách gián tiếp đã xâm phạm quyền của cá nhân đó đối với hình ảnh. Khi quyền của cá nhân đối với hình ảnh bị xâm pham dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của người có hình ảnh bị xâm phạm. Thì cá nhân sử dụng hình ảnh trái pháp luật phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Để khắc phục những hậu quả này thì chủ thể có hành vi xâm pham buộc phải dừng ngay hành vi xâm phạm, buộc phải xin lỗi, cải chính công khai và được bồi thường một khoản tiền nhằm bù đắp một phần nào đó thiệt hại do hành vi của chủ thể này gây ra.