Theo quy định của pháp luật về việc giải quyết các tranh chấp việc, vụ án dân sự thì trước khi đưa vụ án ra xét xử thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành giải quyết sẽ cho thời gian hai bên đương sự tự thỏa thuận với nhau về những vấn đề cần giải quyết. Vậy tự thỏa thuận là gì? Phân biệt hòa giải và tự thỏa thuận như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Phân biệt hòa giải và tự thỏa thuận:
Hòa giải là một trong các thủ tục tố tụng quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ, việc về dân sự tại
Khái niệm
Tự thỏa thuận là một biện pháp giải quyết tranh chấp; theo đó, các bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận với nhau nhằm đưa ra thỏa thuận giải quyết tranh chấp phù hợp với quy định của pháp luật, truyền thống đạo đức xã hội
Hòa giải là một biện pháp giải quyết tranh chấp; theo đó, với sự giúp đỡ của bên thứ ba, độc lập giữ vai trò trung gian, các bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận giải quyết tranh chấp phù hợp với quy định của pháp luật, truyền thống đạo đức xã hội.
Chủ thể
Tự thỏa thuận: các bên đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc hòa giải nhằm đưa ra thỏa thuận giải quyết tranh chấp phù hợp.
Hòa giải: trong quá trình thương lượng ngoài các bên đương sự, có sự tham gia của bên thứ ba độc lập làm vai trò trung gian để hỗ trợ cho các bên nhằm tìm kiếm giải pháp thích hợp cho việc giải quyết các xung đột, chấm dứt các tranh chấp, bất hòa.
Giai đoạn tiến hành
Tự thỏa thuận: phương thức giải quyết tranh chấp này có thể được tiến hành ở bất cứ giai đoạn nào trong tố tụng của quá trình giải quyết các vụ, việc về dân sự tại
Hòa giải: Đối với hòa giải, đây là hoạt động do Tòa án tiến hành. Sự có mặt của Tòa án trong hòa giải khẳng định vị trí trung gian của Tòa án trong việc hòa giải. Hòa giải chỉ được tiến hành ở những giai đoạn nhất định trong quá trình tố tụng: hòa giải trước khi Tòa án mở phiên tòa sơ thẩm, hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm và hòa giải thành trước khi mở phiên tòa phúc thẩm.
Nội dung
Tự thỏa thuận: trong quá trình tự thỏa thuận, các bên tranh chấp tự mình thỏa thuận với nhau nhằm đưa ra những biện pháp, phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp có lợi cho cả hai bên. Trong tự thỏa thuận không có sự tham gia của bên thứ ba.
Hòa giải: các bên giải quyết tranh chấp, với sự giúp đỡ của bên thứ ba (thường là Tòa án), độc lập giữ vai trò trung gian, các bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận giải quyết tranh chấp phù hợp với quy định của pháp luật, truyền thống đạo đức xã hội. Với vai trò của mình, Tòa án giải thích cho các đương sự hiểu được quyền, nghĩa vụ pháp luật có liên quan. Kết quả cuối cùng sẽ được Tòa án công nhận và được ghi nhận tại
2. Căn cứ để tiến hành hòa giải:
Theo Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013, Hòa giải ở cơ sở được tiến hành khi có một trong các căn cứ yêu cầu hòa giải của người có yêu cầu. Việc tiến hành hòa giải phải có hòa giải viên chứng kiến hoặc biết vụ, việc thuộc phạm vi hòa giải và được giải quyết theo phân công của tổ trưởng tổ hòa giải hoặc đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
– Về địa điểm hòa giải được quy định là nơi xảy ra vụ việc hoặc nơi do các bên hoặc hòa giải viên lựa chọn, bảo đảm thuận lợi cho các bên, thời gian tiến hành tổ chức hòa giải thực hiện trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày được phân công, khi đó hòa giải viên bắt đầu tiến hành hòa giải, trừ trường hợp cần thiết phải hòa giải ngay khi chứng kiến vụ, việc hoặc các bên có thỏa thuận khác về thời gian hòa giải.
3. Nguyên tắc tiến hành hòa giải:
+ Thứ nhất, bắt buộc tôn trọng sự tự nguyện của các bên, Hòa giải viên không bắt buộc, áp đặt các bên trong khi hòa giải ở cơ sở. Bởi lẽ, pháp luật quy định nhiệm vụ của hòa giải viên là hướng dẫn, giúp các bên tranh chấp tìm được tiếng nói chung để tự giàn xếp mâu thuẫn và là người trung gian hướng dẫn, giúp đỡ các bên giải quyết tranh chấp bằng con đường hòa giải chứ không áp đặt, bắt buộc các bên phải tiến hành hòa giải, tôn trọng sự tự nguyện, tôn trọng ý chí của các bên
+ Thứ hai, bảo đảm trình tự tổ chức phiên hòa giải phải luôn phù hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân; phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ và cộng đồng dân cư; quan tâm đến quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật và người cao tuổi. Theo đó, đây là nguyên tắc quan trọng trực tiếp đưa chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, phát huy truyền thống đạo đức, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc phát triển.
+ Thứ ba, bảo đảm yếu tố khách quan, công bằng, kịp thời, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin đời tư của các bên yêu cầu: có thể thấy, trong bất cứ tình huống giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp xảy ra nào đó thì mỗi bên đều có lý lẽ, quan điểm riêng để tranh luận, hòa giải viên cần phải lắng nghe ý kiến các bên để phân rõ đúng sai.
+ Thứ tư, tôn trọng ý chí, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng tức là việc hòa giải các vụ việc không chỉ nhằm giải quyết tranh chấp, bảo vệ, khôi phục quyền và lợi ích của các bên đương sự mà còn phải bảo đảm lợi ích chung của xã hội, của Nhà nước và của người khác.
– Thứ năm, bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở: Bình đẳng giới trong các quy định đối với hòa giải viên, tổ trưởng tổ hòa giải về tiêu chuẩn, phương thức bầu hòa giải viên không phân biệt giới tính, độ tuổi, quyền và nghĩa vụ của hòa giải viên, tổ hòa giải và tổ trưởng tổ hòa giải và ở quy định về cơ cấu tổ hòa giải, bảo đảm bắt buộc phải có hòa giải viên nữ.
Như vậy, căn cứ để Hòa giải viên tiến hành hòa giải là căn cứ lựa chọn địa điểm, thời gian tiến hành hòa giải đảm bảo phù hợp với quy định pháp luật và trường hợp yêu cầu hòa giải. Ngoài ra, phải tuân thủ các nguyên tắc được quy định khi tổ chức phiên hòa giải như tôn trọng ý kiến, quyền cá nhân và đảm bảo được lợi ích chung cho công dân, nhà nước.
4. Quy định về trình tự, thủ tục tiến hành hòa giải tại cơ sở:
Về trình tự, thủ tục tiến hành hòa giải ở cơ sở:
Hòa giải ở cơ sở được tiến hành theo trình tự, thủ tục như sau: Khi tiếp nhận hòa giải việc thì Tổ trưởng tổ hòa giải phân công hòa giải viên tiến hành hòa giải trong trường hợp các bên không đưa ra lựa chọn hòa giải viên trực tiếp giải quyết.
Theo quy định hòa giải viên là người thân trong nhà hoặc có liên quan phải từ chối tiếp nhận hào giải nên tổ trưởng tổ hòa giải không phân công hòa giải viên tiến hành hòa giải nếu có căn cứ cho rằng hòa giải viên có quyền, lợi ích, nghĩa vụ liên quan đến vụ, việc hòa giải hoặc có lý do khác dẫn đến không thể bảo đảm khách quan, công bằng trong hòa giải. Trong quá trình hòa giải, xét thấy hòa giải viên vi phạm nguyên tắc hoạt động hòa giải hoặc nghĩa vụ khác của hòa giải viên thì tổ trưởng tổ hòa giải trực tiếp phân công hòa giải viên khác thực hiện việc hòa giải.
– Hòa giải viên tiến hành hòa giải được tiến hành trực tiếp, bằng lời nói với sự có mặt của các bên. Trong trường hợp các bên có người khuyết tật thì có sự hỗ trợ phù hợp để có thể tham gia hòa giải và việ hòa giải được tiến hành công khai hoặc không công khai theo ý kiến thống nhất của các bên.
Căn cứ theo từng tình huống dẫn đến vụ, việc cụ thể, trên cơ sở quy định của pháp luật, tuân thủ theo đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân thì hòa giải viên áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm giúp các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong vụ, việc để các bên tự thu xếp thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó. Khi trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Trong phiên hòa giải thì Hòa giải viên có trách nhiệm ghi lại toàn bộ nội dung vụ, việc hòa giải vào Sổ theo dõi hoạt động hòa giải ở cơ sở.
– Kết thúc phiên hòa giải
Hòa giải viên kết thúc phiên hòa giải khi các bên đã đạt được thỏa thuận hoặc một bên hoặc các bên yêu cầu chấm dứt hòa giải.
+ Hòa giải viên quyết định kết thúc hòa giải khi các bên không thể đạt được thỏa thuận và việc tiếp tục hòa giải cũng không thể đạt được kết quả. Trong trường hợp này, hòa giải viên cần hướng dẫn các bên liên hệ, yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết vụ việc theo quy định của pháp luật. Đồng thời tuyên truyền, vận động các bên chấp hành chính sách pháp luật, không được xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhau, hoặc gây mất an ninh trật tự.
Như vậy, đối với việc hòa giải được thực hiện ở cơ quan có thẩm quyền và được cơ quan cứ hòa giải viên trực tiếp tham gia phiên hòa giải. Phiên hòa giải được diễn ra khi có yêu cầu từ hai bên đương sự và hòa giải viên tiến hành hòa giải phải bảo đảm các nguyên tắc đã trình bày như trên.