Các trường hợp chung sống như vợ chồng trái pháp luật được quy dịnh tại khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình - Chung sống trái pháp luật.
Theo khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng.
Các trường hợp chung sống như vợ chồng trái pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ Luật Hình sự bao gồm: người nào đang có vợ, có chồng chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ.
Như vậy, theo quy định thì chỉ có hai trường hợp trên là chung sống như vợ chồng là trái pháp luật. Nhưng trên thực tế, còn có những trường hợp hình thành việc chung sống như vợ chồng như sau:
- Giữa nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn. Họ không thực hiện việc đăng ký kết hôn theo ý chí của họ hoặc vì một lý do chủ quan, khách quan nào đó không thực hiện được việc đăng ký (ví dụ, họ quan tâm đến tổ chức lễ cưới theo tập quán hơn là tổ chức theo nghi thức kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền…);
- Giữa những người cùng giới tính. Họ không thực hiện việc đăng ký kết hôn theo ý chí của họ hoặc mong muốn được đăng ký kết hôn nhưng không thể đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền do vi phạm điều kiện về giới tính;
- Giữa người chuyển giới với người khác hoặc giữa những người chuyển giới với nhau. Họ không thực hiện việc đăng ký kết hôn theo ý chí của họ hoặc họ mong muốn được đăng ký nhưng không thể đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền vì việc chuyển giới của họ chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.
Các trường hợp này chưa được pháp luật quy định như quan hệ chung sống như vợ chồng, tức là luật chưa bao quát hết các quan hệ chung sống như vợ chồng trên thực tế. Luật mới chỉ đề cập đến việc nam, nữ chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn, còn các việc chung sống như vợ chồng khác không có căn cứ pháp lý để điều chỉnh. Vì vậy, lại đặt ra một vấn đề rằng: Liệu các trường hợp nêu trên chưa được pháp luật bao quát có phải là trái pháp luật hay không?
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Đối với trường hợp nam nữ có đủ điều kiện kết hôn nhưng họ không thực hiện việc đăng ký kết hôn theo ý chí của họ hoặc vì một lý do chủ quan, khách quan nào đó không thực hiện được việc đăng ký thì có thể thấy là một trong những trường hợp khá phổ biến trong xã hội hiện nay. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng đã công nhận về việc nam nữ chung sống như vợ chồng nhưng không đăng kí kết hôn, tuy nhiên, trường hợp này theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng (khoản 1, Điều 14, Luật Hôn nhân và gia đình 2014). Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng đã quy định về quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên trong trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng nhưng không đăng kí kết hôn.
Trường hợp chung sống như vợ chồng giữa những người cùng giới tính hoặc người chuyển giới với người khác hoặc giữa những người chuyển giới với nhau thì Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã bỏ quy định về cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính, nhưng vẫn chưa thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới. Như vậy, tại Việt Nam, những người đồng giới tính vẫn có thể kết hôn, nhưng sẽ không được pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp xảy ra.
Tóm lại, pháp luật vẫn chưa bao quát hết các trường hợp về chung sống như vợ chồng, mong rằng trong thời gian sớm nhất, các quy định về các vấn đề nêu trên sẽ sớm được hình thành và áp dụng.