Mỗi cá nhân, tổ chức hay cơ quan đều có những tài sản riêng và các tài sản này đều thuộc quyền sở hữu của họ. Đối với các tài sản này, họ có các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Vậy quyền định đoạt là gì? Quy định quyền định đoạt của cá nhân như thế nào?
1. Khái quát chung về quyền định đoạt:
1.1. Một số quy định chung về quyền định đoạt:
Các chủ thể đều có quyền sở hữu đối với tài sản của mình. Đối với các chủ sở hữu tài sản họ đều có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản đó. Ba quyền năng cụ thể này tạo thành một thể thống nhất trong nội dung của quyền sở hữu và có mối liên quan mật thiết với nhau tuy nhiên mỗi quyền năng lại mang một ý nghĩa khác nhau. Đối với quyền chiếm hữu là tiền đề quan trọng cho hai quyền kia nhưng quyền sử dụng lại có ý nghĩa thiết thực, vì chỉ có thông qua quyền năng này chủ sở hữu mói khai thác được lợi ích, công dụng của tài sản đó để thoả mãn các nhu cầu cho mình, còn quyền định đoạt lại có mục đích xác định ý nghĩa pháp lí quan trọng nhất của chủ sở hữu đối với tài sản.
Theo Điều 192
Như vậy, quyền định đoạt là quyền năng của chủ sở hữu để quyết định về số phận của vật. Chủ sở hữu thực hiện quyền định đoạt biểu hiện ở hai góc độ sau đây:
– Định đoạt về số phận thực tế của vật (tức là làm cho vật không còn trong thực tế nữa như: Tiêu dùng hết, huỷ bỏ hoặc từ bỏ quyền sở hữu.
– Định đoạt về số phận pháp lí của vật là việc làm chuyển giao quyền sở hữu đối với cật từ người này sang người khác. Thông thường định đoạt về số phận pháp lý của vật phải thông qua các giao dịch phù hợp với ý chí của chủ sở hữu như bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, thừa kế… thông qua việc định đoạt mà chủ sở hữu có thể chuyển quyền chiếm hữu tạm thời (trong hợp đồng gửi giữ); quyền chiếm hữu và quyền sử dụng tài sản trong một khoảng thời gian xác định hoặc chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu cho người khác bằng hợp đồng bán, đổi, cho tài sản đó.
Cần lưu ý rằng, đối với việc một người thực hiện quyền định đoạt đối với vật sẽ làm chấm dứt hoặc thay đổi các quan hệ pháp luật liên quan đến vật đó trong thực tiễn..
Ta nhận thấy, về cơ bản, định đoạt là chiếm hữu và sử dụng chúng ta thấy rằng trong việc định đoạt số phận thực tế của vật đó, chủ sở hữu chỉ cần thông qua hành vi của mình tác động trực tiếp đến vật. Trong việc định đoạt về số phận pháp lí của chủ sở hữu cần phải thiết lập với chủ thể khác một quan hệ pháp luật dân sự. Đối với quyền định đoạt, pháp luật dân sự đã quy định: Người định đoạt tài sản phải là người có năng lực hành vi. Ta có thể hiểu như sau, người có quyền định đoạt đối với tài sản cần phải có đầy đủ tư cách chủ thể. Trong những trường hợp tài sản ít giá trị thì việc thực hiện quyền định đoạt có thể bằng phương thức đơn giản như: Thoả thuận miệng, chuyển giao ngay tài sản… nhưng trong những trường hợp pháp luật có quy định về trình tự thủ tục thì phải tuân theo những quy định cụ thể của pháp luật.
Trong thực tế có những trường hợp tuy các chủ thể không phải là chủ sở hữu, chủ sở hữu cũng không thực hiện việc uỷ quyền cho các chủ thể này, việc định đoạt có thể không theo ý chỉ của chủ sở hữu nhưng theo quy định của pháp luật những người đó vẫn có quyền định đoạt. Cụ thể đó là việc cơ quan, tổ chức bán đấu giá theo quy định của pháp luật, chấp hành viên kí hợp đồng bán đấu giá để thi hành án; hiệu cầm đồ được quyền bán tài sản nếu hết thời hạn đã thoả thuận mà người vay không trả được tiền vay.
1.2. Điều kiện thực hiện quyền định đoạt:
Pháp luật nước ta đưa ra quy định cho cá nhân là chủ sở hữu hoặc không phải chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản, tuy nhiên các chủ thể đó cần phải đáp ứng những điều kiện nhất định về năng lực hành vi và các trình tự, thủ tục do pháp luật Việt Nam quy định. trong các văn bản pháp luật.
– Điều kiện về năng lực hành vi: Việc định đoạt tài sản phải do người có năng lực hành vi dân sự thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành.
– Trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật về định đoạt tài sản: Các chủ thể trong trường hợp pháp luật hiện hành có quy định về trình tự, thủ tục định đoạt thì cần phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục đó.
1.3. Hạn chế quyền định đoạt
Quyền định đoạt của chủ sở hữu hoặc người được uỷ quyền đối với tài sản chỉ bị hạn chế trong trường hợp do pháp luật quy định cụ thể.
Khi tài sản được đem bán là tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa thì Nhà nước có quyền ưu tiên mua.
Trong trường hợp cá nhân, pháp nhân có quyền ưu tiên mua đối với tài sản nhất định theo quy định của pháp luật thì khi bán tài sản, chủ sở hữu phải dành quyền ưu tiên mua cho các chủ thể đó.
2. Quy định về quyền định đoạt tài sản:
2.1. Chủ thể của quyền định đoạt:
Theo
Thứ nhất: Quyền định đoạt của người là chủ sở hữu:
Như vậy, ta nhận thấy, pháp luật đã trao quyền rất lớn cho chủ sở hữu khi thực hiện quyền định đoạt tài sản.
Thứ hai: Quyền định đoạt của người không phải là chủ sở hữu:
Người không phải chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản sẽ có những hạn chế đối với quyền định đoạt tài sản trong những trường hợp nhất định.
Người không phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo ủy quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật.
Người được chủ sở hữu ủy quyền định đoạt tài sản phải thực hiện việc định đoạt phù hợp với ý chí, lợi ích của chủ sở hữu theo quy định cụ thể tại Điều 198 Bộ luật dân sự năm 2015.
2.2. Quyền định đoạt của chủ sở hữu:
Theo quy định của pháp luật, chủ sở hữu có quyền bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng, tiêu hủy hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật đối với tài sản.
Nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho chủ sở hữu khi định đoạt tài sản, pháp luật nước ta, cụ thể là
Pháp luật quy định rằng, chủ sở hữu có thể uỷ quyền cho người khác định đoạt tài sản, người được uỷ quyền phải thực hiện việc định đoạt theo phương pháp, cách thức phù hợp với ý chí và lợi ích của chủ sở hữu.
Ngoài ra, vì mục tiêu là lợi ích chung của xã hội và để bảo đảm ổn định giao lưu dân sự trong những trường hợp nhất định, Điều 196 Bộ luật dân sự năm 2015 còn đưa ra các quy định việc hạn chế quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Theo đó, quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu sẽ bị hạn chế khi có quy định cụ thể của luật. Khi những tài sản đem bán, đổi là cổ vật, là di tích lịch sử, văn hoá thì Nhà nước có quyền ưu tiên mua.
Cần lưu ý đối với trường hợp tổ chức, cá nhân có quyền ưu tiên mua đối với tài sản nhất định theo quy định của pháp luật thì khi bán tài sản, chủ sở hữu phải dành quyền ưu tiên mua cho tổ chức, cá nhân đó.
2.3. Quyền định đoạt của người không phải là chủ sở hữu:
Đối với các chủ thể không phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo ủy quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật hiện hành.
Trong thực tế, có rất nhiều trường hợp tuy chủ thể không phải là chủ sở hữu đối với tài sản, chủ sở hữu cũng không uỷ quyền định đoạt đối với tài sản cho chủ thể khác và việc định đoạt có thể không theo ý chí của chủ sở hữu nhưng theo quy định của pháp luật những người đó vẫn có quyền định đoạt đối với vật.
Cụ thể ở đây đó là việc các cơ quan, tổ chức bán đấu giá theo quy định của pháp luật hiện hành, chấp hành viên kí họp đồng bán đấu giá để thi hành án; hiệu cầm đồ được quyền bán tài sản nếu hết thời hạn đã thoả thuận mà người vay không trả được tiền vay.
2.4. Quy định về ủy quyền định đoạt:
Bộ luật dân sự năm 2015 đã đưa ra các quy định về việc uỷ quyền định đoạt nhằm mục đích đảm bảo quyền lợi của chủ sở hữu tài sản đó. Chủ sở hữu có thể uỷ quyền cho người khác định đoạt tài sản, người được uỷ quyền phải thực hiện việc định đoạt theo phương pháp, cách thức phù hợp với ý chí và lợi ích của chủ sở hữu.
Ngoài ra, vì mục tiêu là lợi ích chung của xã hội và để nhằm bảo đảm ổn định giao lưu dân sự trong những trường hợp nhất định, theo Điều 196 Bộ luật dân sự năm 2015 còn đưa ra một số quy định đối với việc hạn chế quyền định đoạt tài sản cùa chủ sở hữu. Đó là những trường hợp cụ thể như là tài sản bị kê biên, hoặc tài sản đã được đem đi làm vật bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ. Nếu các quan hệ đặt cọc, thế chấp chấm dứt, quyết định kê biên tài sản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền không còn hiệu lực, thì quyền đinh đoạt của chủ sở hữu được khôi phục theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Trong thực tế, có rất nhiều những trường hợp tuy không phải là chủ sở hữu, chủ sở hữu không uỷ quyền, việc định đoạt có thể không theo ý chí của chủ sở hữu nhưng theo quy định pháp luật những người đó vẫn có quyền đối với tài sản đó.