Khái niệm về ngân hàng giám sát? Quy định chung về ngân hàng giám sát? Quyền và nghĩa vụ của ngân hàng giám sát? Những hạn chế đối với ngân hàng giám sát?
Ngân hàng giám sát là loại hình không còn quá xa lạ đối với lĩnh vực chứng khoán. Tuy nhiên để hiểu rõ hơn về loại hình ngân hàng giám sát này Luật Dương gia xin được gửi tới bạn đọc bài viết về những quy định của ngân hàng giám sát, quyền và nghĩa vụ của ngân hàng giám sát để bạn đọc có được cái nhìn tổng quát hơn về vấn đề này.
1. Khái niệm về ngân hàng giám sát
Ngân hàng giám sát trong lĩnh vực chứng khoán được quy định tại Luật chứng khoán như sau:
Ngân hàng giám sát là ngân hàng thương mại có Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động lưu ký chứng khoán có chức năng thực hiện các dịch vụ lưu ký và giám sát việc quản lý quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán.
Như vậy, ta có thể thấy ngân hàng giám sát tiền thân vẫn là loại hình ngân hàng thương mại nhưng hoạt động chính của ngân hàng giám sát lại khác với những ngân hàng thương mại khác vì hoạt động chủ yếu của ngân hàng giám sát là việc lưu ký và thanh tra, kiểm tra quá trình hoạt động liên quan đến quản lý quỹ của quỹ đại chúng hoặc công ty đầu tư chứng khoán
2. Quy định chung về ngân hàng giám sát
Đối với hoạt động chung của ngân hàng giám sát thì ngân hàng giám sát trong quá trình hoạt động cần phải đáp ứng được các quy định sau đây:
Thứ nhất, những hoạt động được thực hiện trong hệ thống ngân hàng giám sát phải đảm bảo được yêu cầu là hoàn toàn độc lập và các hoạt động phải nghiêm chỉnh tách biệt với các hoạt động trong hệ thống của công ty mà ngân hàng giám sát thực hiện hoạt động dịch vụ giám sát.
Thứ hai, đối với thành viên hội đồng quản trị của ngân hàng giám sát và thành viên ban điều hành của ngân hàng giám sát cũng như nhân viên của ngân hàng giám sát sẽ là những chủ thể trực tiếp tiến hành thực hiện nhiệm vụ bảo quản tài sản quĩ của công ty quản lý quỹ được giám sát. Bên cạnh đó ngân hàng giám sát sẽ tiến hành thực hiện việc giám sát hoạt động quản lí tài sản của công ty quản lí quĩ. Trong quy định này thì người thuộc ngân hàng giám sát thực hiện trực tiếp việc giám sát sẽ phải đáp ứng được yêu cầu đó là không được là người có liên quan hoặc tham gia điều hành.Bên cạnh đó đối với hoạt động quản trị công ty thì việc chủ thể thực hiện trực tiếp việc quản lí quĩ không được có một trong những quan hệ sau đây: quan hệ sở hữu, tham gia góp vốn, nắm giữ cổ phần, vay hoặc cho vay với công ty quản lí quĩ mà ngân hàng giám sát cung cấp dịch vụ giám sát và ngược lại.
Thứ ba, đối với các chủ thể sau: ngân hàng giám sát, thành viên hội đồng quản trị, thành viên ban điều hành và nhân viên nghiệp vụ sẽ phải đáp ứng được các yêu cầu sau liên quan đến mối quan hệ với bên thứ ba là bên đối tác đó là: các chủ thể nêu trên không được có mối quan hệ với bên thứ ba là bên đối tác khi thực hiện nghiệp vụ mua bán đối với giao dịch mua bán qua các sở giao dịch chứng khoán hay qua hệ thống giao dịch được pháp luật quy định
Thứ tư, trong quá trình tiến hành hoạt động nếu xảy ra những tình trạng những sự cố bất khả kháng dẫn đến bên phía ngân hàng giám sát bị tạm ngừng việc cung ứng dịch vụ giám sát theo quy định hay thỏa thuận trước đó thì bên ngân hàng phải
Thứ năm, đối với hoạt động giám sát của ngân hàng giám sát thì phía ngân hàng giám sát cần phải đáp ứng được yêu cầu về chứng chỉ hành nghề đối với nhân viên hoặc thành viên của ngân hàng giám sát như sau: Phải có chứng chỉ về pháp luật chứng khoán, chứng chỉ về chứng khoán và thị trường chứng khoán mức sơ cấp trở lên, chứng chỉ liên quan đến kế toán.
3. Nghĩa vụ của ngân hàng giám sát
-Ngân hàng giám sát có nghĩa vụ thực hiện các nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều 47 của Luật Chứng khoán;
3.1. Nghĩa vụ lưu ký tài sản đối với ngân hàng giám sát
– Thực hiện lưu ký tài sản của quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán; quản lý tách biệt tài sản của quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán và các tài sản khác của ngân hàng giám sát;
Theo Điều 116 Luật Chứng khoán; quy định:
Ngân hàng giám sát thực hiện giám sát các hoạt động của công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán trong phạm vi liên quan tới quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán mà ngân hàng cung cấp dịch vụ giám sát. Ngân hàng giám sát có các nghĩa vụ sau đây:
Nghĩa vụ của thành viên lưu ký được quy định tại Khoản 3 điều 56 như sau:
Thành viên lưu ký có các nghĩa vụ sau đây:
a) Tuân thủ nghĩa vụ quy định tại các điểm b, d, đ, g, h, i, l và m khoản 2 Điều 55 của Luật này;
b) Bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho các hoạt động lưu ký và thanh toán chứng khoán;
c) Đóng góp quỹ hỗ trợ thanh toán theo quy định của pháp luật;
d) Quản lý tách biệt tài sản của khách hàng, tài sản của khách hàng với tài sản của thành viên lưu ký; ghi nhận chính xác, kịp thời tài sản, các quyền tài sản và các lợi ích có liên quan đến tài sản nhận lưu ký của khách hàng;
đ) Duy trì các điều kiện đăng ký hoạt động lưu ký chứng khoán;
e) Tuân thủ nghĩa vụ báo cáo và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật và quy chế của Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam.
3.2 Nghĩa vụ giám sát của ngân hàng giám sát
– Giám sát để bảo đảm công ty quản lý quỹ quản lý quỹ đại chúng, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty đầu tư chứng khoán quản lý tài sản của công ty tuân thủ quy định tại Luật Chứng khoán và Điều lệ quỹ đầu tư chứng khoán, Điều lệ công ty đầu tư chứng khoán;
3.3. Nghĩa vụ thực hiện hoạt động thu chi đối với ngân hàng giám sát
– Thực hiện hoạt động thu, chi, thanh toán và
3.4.Nghĩa vụ xác nhận báo cáo đối với ngân hàng giám sát
– Xác nhận báo cáo do công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán lập có liên quan đến quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán;
3.5.Nghĩa vụ giám sát tuân thủ đối với ngân hàng giám sát
– Giám sát việc tuân thủ chế độ báo cáo và công bố thông tin của công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán theo quy định của Luật Chứng khoán;
– Báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước khi phát hiện công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán và tổ chức, cá nhân có liên quan vi phạm pháp luật hoặc Điều lệ quỹ đầu tư chứng khoán, Điều lệ công ty đầu tư chứng khoán;
– Định kỳ cùng công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán đối chiếu sổ kế toán,
– Các nghĩa vụ khác theo quy định tại Điều lệ quỹ đầu tư chứng khoán, Điều lệ công ty đầu tư chứng khoán.
4. Những hạn chế đối với ngân hàng giám sát
Căn cứ theo quy định tại Điều 117 việc hạn chế đối với ngân hàng giám sát được chia thành hai nội dung cụ thể như sau:
Thứ nhất, việc hạn chế đối với chủ thể bị hạn chế đối với ngân hàng giám sát
1. Ngân hàng giám sát, thành viên Hội đồng quản trị, người điều hành và nhân viên của ngân hàng giám sát làm nhiệm vụ giám sát hoạt động và bảo quản tài sản của quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán không được là người có liên quan hoặc có quan hệ sở hữu, vay hoặc cho vay với công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán và ngược lại.
Như vây, ta có thể thấy việc hạn chế giám sát đối với chủ thể ngân hàng giám sát là những người thuộc hội đồng quản trị, những người làm công việc tham gia vào quá trình thực hiện giám sát như người điều hành hay ngân viên đang làm việc trực tiếp tại ngân hàng giám sát. Như nội dung nêu tại mục 2 của bài viết này, thì việc hạn chế đối với chủ thể của ngân hàng giám sát sẽ giúp cho việc cung ứng dịch vụ hoạt động giám sát của ngân hàng giám sát. Bởi lẽ hai hoạt động giám sát và yêu cầu giám sát cần được sự công khai và minh bạch, do đó những chủ thể là người trực tiếp thực hiện hoạt động giám sát tại ngân hàng giám sát thường sẽ không được có mối quan hệ với chủ thể bên yêu cầu cung ứng dịch vụ giám sát theo một số quy định nhất định của pháp luật
Thứ hai, quy định về hạn chế đối với các hoạt động của ngân hàng giám sát
2. Ngân hàng giám sát, thành viên Hội đồng quản trị, người điều hành và nhân viên của ngân hàng giám sát làm nhiệm vụ giám sát hoạt động và bảo quản tài sản của quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán không được là đối tác mua, bán trong giao dịch mua, bán tài sản của quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán.
Cũng như những quy định về chủ thể giám sát thì hoạt động giám sát mà bên ngân hàng cung cấp cũng sẽ bị hạn chế một số hoạt động khác như sau: đối với hoạt động mua bán hay trao đổi giao dịch hàng hóa trong mối quan hệ mua bán chứng khoán thì việc bị hạn chế là điều cần thiết. Bởi nếu thực hiện việc trao đổi giao dịch mua bán giữa các bên cung ứng dịch vụ giám sát với bên yêu cầu dịch vụ giám sát sẽ không còn được minh bạch trong quá trình giám sát theo quy định pháp luật. Việc giám sát sẽ không còn được thực hiện nghiêm chỉnh tuân thủ theo quy định pháp luật bởi trong trường hợp này bên giám sát chính là bên bán hoặc bên mua