Phương pháp, đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Phương pháp điều chỉnh là tổng hợp các biện pháp cách thức mà nhà nước sử dụng để tác động lên các quan hệ dân sự.
Sự hợp tác quốc tế về mọi mặt giữa quốc gia là sự phát triển tất yếu của quan hệ quốc tế. Việc củng cố và tăng cường hợp tác giữa các quốc gia thể hiện trong quan hệ dưới nhiều thức và phương diện khác nhau. Trong tư pháp quốc tế đã có những quy định rất rõ ràng và cụ thể về đối tượng cũng như phương pháp điều chỉnh. Bài viết dưới đây của Luật Dương gia sẽ giúp cho bạn đọc hiểu rõ hơn về vấn đề này.
Mục lục bài viết
Thứ nhất, tư pháp quốc tế là gì?
Tư pháp quốc tế được định nghĩa là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự, thương mại, hôn nhân gia đình, lao động, và tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài.
Như vậy, ta có thể hiểu tư pháp quốc tế là những sự hợp tác về các mặt trong mọi lĩnh vực giữa quốc gia này với quốc gia khác, được củng cố và nghiêm chỉnh thực hiên trên tinh thần thoải mái, bình đẳng. Không chỉ là mối quan hệ bình đẳng giữa các quốc gia mà còn là sự bình đẳng giữa các công dân, về mặt kinh tế, chính trị….
Tư pháp quốc tế đóng vai trò quan trọng trong quá trình hợp tác phát triển mối quan hệ pháp luật giữa các quốc gia trên thế giới. Tư pháp quốc tế giống như một phương pháp giúp cho các quốc gia có liên quan xảy ra vấn đề giải quyết được vấn đề đó. Tư pháp quốc tế đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật giữa các quốc gia trên thế giới. Đây là sợi dây gắn kết các quốc gia, các mối quan hệ giữa công dân với công dân và các quan hệ giữa công dân với pháp nhân hay giữa pháp nhân với pháp nhân của các quốc gia trên thế giới.
Thứ hai, về phương pháp điều chỉnh của tư pháp quốc tế
Phương pháp điều chỉnh là tổng hợp các biện pháp cách thức mà nhà nước sử dụng để tác động lên các quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài làm cho các quan hệ này phát triển theo hướng có lợi cho giai cấp thống trị trong xã hội.
Việc thực hiện nội dung tư pháp quốc tế giữa các quốc gia với quốc gia, giữa các công dân với công dân, giữa các vấn đề của quốc gia với nhau cần tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định của tư pháp quốc tế. Các phương pháp điều chỉnh của tư pháp quốc tế được chia ra làm hai phương pháp chính như sau:
Có hai phương pháp điều chỉnh của tư pháp quốc tế:
Một là,phương pháp điều chỉnh thực chất:
Phương pháp thực chất theo quy định được hiểu là phương pháp sử dụng các quy phạm pháp luật thực chất để điều chỉnh quan hệ tư pháp quốc tế.
Quy phạm thực chất là quy phạm định sẵn các quyền, nghĩa vụ, biện pháp chế tài đối với các chủ thể tham gia quan hệ tư pháp quốc tế xảy ra, nếu có sẵn quy phạm thực chất để áp dụng thì các đương sự cũng như cơ quan có thẩm quyền căn cứ ngay vào quy phạm để xác định được vấn đề mà họ đang quan tâm mà không cần phải thông qua một khâu trung gian nào.
Trong thực tiễn việc điều chỉnh các quan hệ tư pháp quốc tế được áp dụng bởi các quy phạm thực chất thống nhất là quy phạm thực chất được xay dựng bằng cách các quốc gia kí kết, tham gia các điều ước quốc tế hoặc chấp nhận và sử dụng tập quán quốc tế.
Tính ưu việt: làm cho mối quan hệ tư pháp quốc tế được điều chỉnh nhanh chóng, các vấn đề cần quan tâm được xác định ngay, các chủ thể của quan hệ đó và các cơ quan có thẩm quyền khi gây tranh chấp sẽ tiết kiệm được thời gian tránh được việc tìm hiểu pháp luật nước ngoài là một vấn đề phức tạp.
Hạn chế: số lượng ít không đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh quan hệ tư pháp quốc tế.
Hai là, phương pháp điều chỉnh gián tiếp (phương pháp xung đột)
Phương pháp xung đột hay còn gọi là phương pháp điều chỉnh gián tiếp được hiểu là phương pháp sử dụng quy phạm xung đột nhằm xác định hệ thống pháp luật nước nào sẽ được áp dụng trong việc điều chỉnh quan hệ tư pháp quốc tế cụ thể.
Quy phạm xung đột: không quy định sẵn các quyền, nghĩa vụ các biện pháp chế tài đối với các chủ thể tham gia tư pháp quốc tế mà nó chỉ có vai trò xác định hệ thống pháp luật nước nào sẽ được áp dụng.
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Quy phạm xung đột được xây dựng bằng cách các quốc gia tự ban hành hệ thống pháp luật của nước mình (gọi là quy phạm xung đột trong nước) ngoài ra nó còn được xây dựng bằng cách các quốc gia kí kết các điều ước quốc tế (quy phạm xung đột thống nhất).
Phương pháp điều chỉnh gián tiếp được coi là đặc trưng cơ bản của tư pháp quốc tế vì:
Trong thực tiễn tư pháp quốc tế số lượng các quy phạm thực chất ít không đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh các quan hệ tư pháp quốc tế phát sinh ngày càng đa dạng trong khi đó quy phạm xung đột được xây dựng một cách đơn giản hơn nên có số lượng nhiều hơn. Do có nhiều quy phạm xung đột nên đã điều chỉnh hầu hết các quan hệ tư pháp quốc tế.
Chỉ có tư pháp quốc tế mới sử dụng phương pháp này, các ngày luật khác không áp dụng phương pháp điều chỉnh gián tiếp: luật hình sự, luật dân sự khi điều chỉnh cấc quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của nó sẽ áp dụng các quy phạm pháp luật trong Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự mà không phải xác định xem luật của nước nào khác sẽ được áp dụng.
Cả hai phương pháp điều chỉnh trên của Tư pháp quốc tế đều được áp dụng đồng thời, nhưng trong những trường hợp nhất định thì chỉ cần áp dụng phương pháp thực chất. Do đó, ta có thể nói phương pháp thực tế là phương pháp có ưu thế hơn. Đây là các trường hợp mà quy phạm thực chất đã được nhất thể hóa trong các điều ước quốc tế.
Trong quá trình hợp tác quốc tế về mọi mặt của quốc gia như kinh tế của quốc gia, thương mại kỹ thuật của quốc gia, văn hóa chính trị của quốc gia… thì các quốc gia đều đã tuân thủ cũng như thể hóa được rất nhiều vấn đề trong quá trình xây dựng và phát triển quốc gia
Ba là, phương pháp điều chỉnh áp dụng tập quán, tương tự pháp luật.
Trong trường hợp phương pháp một và phương pháp hai không được thực hiện hoặc không thể thực hiện được thì phương pháp điều chỉnh áp dụng tập quán, tương tự pháp luật. Ta có thể thấy, phương pháp này được đưa ra sử dụng khi hệ thống pháp luật còn sự thiếu xót, chưa được hoàn chỉnh, hay trong trường hợp xảy ra, hệ thống pháp luật chưa có quy định, chưa có án lệ để áp dụng. Trong trường hợp liên quan đến tư pháp quốc tế thì các quốc gia chưa có các điều ước quốc tế liên quan được ký kết. Pháp luật trong quốc gia cũng chưa có điều luật để thực hiện thì các tập quán tương tự luật của chính quốc gia sẽ được áp dụng để giải quyết.
Để tránh khỏi những trường hợp khi phải sử dụng đến tập quán tương tự luật trong quá trình giải quyết liên quan thì các quốc gia đang từng bước cố gắng hoàn thiện luật và đưa ra các ký kết quốc tế mang tính hoàn thiện tư pháp quốc tế. Sự hợp tác này đem lại những lợi ích nhất định trong quá trình hợp tác phát triển mối quan hệ pháp luật giữa các quốc gia trên thế giới.
Thứ ba, đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế
Các quan hệ giữa công dân với công dân và các quan hệ giữa công dân với pháp nhân hay giữa pháp nhân với pháp nhân của các quốc gia trên thế giới luôn có những sự phức tạp bởi nó vô cùng phong phú. Những vấn đề liên quan tới mối quan hệ giữa công dân với công dân và các quan hệ giữa công dân với pháp nhân hay giữa pháp nhân với pháp nhân của các quốc gia trên thế giới chính là những đối tượng điều chỉnh của luật tư pháp quốc tế.
Các quan hệ, các đối tượng mà luật tư pháp điều chỉnh như sau:
+ Một là, trường hợp có người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài hoặc người Việt Nam ở nước ngoài tham gia. Người nước ngoài là những người mang quốc tịch nước ngoài nhưng không đồng thời mang quốc tịch Việt Nam và người không quốc tịch
Ví dụ trong trường hợp này như sau: các quan hệ phát sinh giữa những đối tượng là công dân nước ngoài nhưng hiện tại đang sinh sống và làm việc, học tập trên lãnh thổ Việt Nam, giữa những đối tượng là công dân Việt Nam mang quốc tịch Việt Nam nhưng cũng đang sinh sống học tập hay làm việc tại lãnh thổ quốc gia khác
+ Hai là, khách thể của quan hệ đó ở nước ngoài.
Ví dụ trong trường hợp này như sau : Trong trường hợp công dân Việt Nam mang quốc tịch Việt Nam nhưng lại có tài sản ở nước ngoài. Khi công dân này chết thì là đối tượng của quan hệ nằm ở nước ngoài đó di sản thừa kế của người này ở nước ngoài
+Ba là, sự kiện pháp lý là căn cứ xác lập, thay đổi , chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài
Ví dụ trong trường hợp này như sau như hai công dân Việt Nam mang quốc tịch Việt Nam, tuy nhiên trong quá trình cùng chung sống học tập hay làm việc ở nước ngoài lại thực hiện thủ tục kết hôn tại nước ngoài.
Như vậy, qua đây ta có thể thấy đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế là những quan hệ dân sự, quan hệ hôn nhân, và gia đình, quan hệ về lao động, quan hệ về thương mại và tố tụng dân sự nhưng có yếu tố nước ngoài. Đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế khá rộng và bao trùm hầu hết các quan hệ chỉ cần những quan hệ đó liên quan tới yếu tố nước ngoài.
Trên đây là toàn bộ những kiến thức pháp luật về phương pháp điều chỉnh tư pháp quốc tế cũng như đối tượng điều chỉnh tư pháp quốc tế mà Luật Dương gia cung cấp tới cho bạn đọc. Hi vọng những kiến thức mà Luật Dương gia cung cấp trên đây sẽ giúp cho bạn đọc có thêm nhiều kiến thức bổ ích về tư pháp quốc tế nói chung cũng như về phương pháp, đối tượng điều chỉnh của Luật tư pháp nói riêng.