Quyền và nghĩa vụ dân sự có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể dân sự. Mỗi bên đều phải quan tâm đến quyền và lợi ích của mình cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, của Nhà nước và xã hội. Thực hiện nghĩa vụ dân sự là gì? Nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ dân sự như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Nghĩa vụ dân sự là gì?
Điều 274
Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền).
Sau khi quan hệ nghĩa vụ được xác lập theo các căn cứ do pháp luật quy định, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền, người có nghĩa vụ phải triển khai hành vi của mình để thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận với người có quyền hoặc theo quy định của pháp luật.
Thực hiện nghĩa vụ dân sự là việc triển khai hành vi của người có nghĩa vụ trong việc chuyển giao một tài sản, thực hiện một công việc hoặc không được thực hiện một công việc vì lợi ích của người có quyền.
Như vậy, ta có thể hiểu, nghĩa vụ dân sự là cách xử sự bắt buộc đối với chủ thể là người có nghĩa vụ. Trong các quy phạm pháp luật dân sự, các quy phạm pháp luật cho phép các chủ thể lựa chọn cách thực hiện khi tham gia vào các quan hệ dân sự phát huy quyền tự định đoạt của mình. Pháp luật cũng đưa ra các quy định cấm người dân không được làm. Từ các quy phạm này, phát sinh nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự. Những nghĩa vụ dân sự này do pháp luật quy định cho tất cả các bên tham gia vào quan hệ dân sự không chỉ có ý nghĩa đối với các bên tham gia mà đó còn là nghĩa vụ của các chủ thể và có ý nghĩa đối với Nhà nước, đối với xã hội.
2. Căn cứ phát sinh nghĩa vụ:
Theo quy định của pháp luật hiện hành đã đưa ra sáu căn cứ phát sinh để thực hiện nghĩa vụ dân sự, cụ thể là:
– Thứ nhất: Hợp đồng.
Theo quy định của
– Thứ hai: Hành vi pháp lý đơn phương.
Đây là hành vi của cá nhân nhằm thể hiện ý chí tự do, tự nguyện, tự định đoạt của bản thân từ hành vi này làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các chủ thể tham gia các giao dịch dân sự. Khi một người thực hiện một hành vi pháp ký đơn phương thì có thể làm phát sinh nghĩa vụ của người đó với người khác hoặc phát sinh nghĩa vụ của người khác với người thứ ba.
– Thứ ba: Thực hiện công việc không có ủy quyền.
Đây là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối.
– Thứ tư: Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.
Trong thực tế, khi một người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật sẽ làm phát sinh nghĩa vụ hoàn trả của người đó kể từ khi người đó có khoản lợi trong tay. Từ thời điểm người đó biết hoặc phải biết việc được lợi thì phải hoàn trả khoản lợi mà mình đã thu được.
– Thứ năm: Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật.
Thực hiện hành vi gây thiệt hại trái pháp luật sẽ phát sinh quan hệ bồi thường thiệt hại. Trong quan hệ này, bên gây thiệt hại phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho bên bị thiệt hại.
– Thứ sáu: Căn cứ khác do pháp luật quy định.
Trong trường hợp này do pháp luật khác quy định, để tránh sự bỏ sót phát sinh trong thực tiễn. Đó là những căn cứ pháp lý do pháp luật quy định điều chỉnh các quan hệ nghĩa vụ về tài sản giữa các chủ thể trong quan hệ xã hội thuộc lĩnh vực dân sự.
3. Đối tượng của nghĩa vụ:
Theo quy định của pháp luật, đối tượng của nghĩa vụ bao gồm: tài sản, công việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện. Các đối tượng của nghĩa vụ cần phải được xác định.
– Thứ nhất, đối tượng của nghĩa vụ là tài sản.
Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 tài sản bao gồm:
+ Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
+ Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.
Đây là những gì các bên chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ tác động tới để qua đó thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình.
– Thứ hai, đối tượng của nghĩa vụ là công việc phải thực hiện.
Ta có thể hiểu công việc là một dạng hoạt động cụ thể mà một bên mong muốn xác lập quan hệ nghĩa vụ để bên còn lại thực hiện hoạt động này. Hoạt động này có thể thông qua hoặc không thông qua hành vi cụ thể. Và qua hoạt động này, bên yêu cầu có thể thỏa mãn được các nhu cầu về lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần. Do đó, công việc phải thực hiện được hiểu là những hoạt động thể hiện thông qua hành vi cụ thể.
– Thứ ba, về công việc không được thực hiện.
Công việc không được thực hiện là những hoạt động không thông qua hành vi. Hay hiểu một cách đơn giản là thể hiện dưới dạng không hành động cụ thể. Hoạt động này cũng sẽ là đối tượng của quan hệ nghĩa vụ khi các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định mà thông qua hoạt động này, một trong các bên có được những quyền và lợi ích của mình.
– Đối tượng của nghĩa vụ phải được xác định.
Muốn thực hiện được quyền và nghĩa vụ từ sự thỏa thuận hoặc pháp luật của các bên, đối tượng là tài sản, công việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện cần phải xác định được một cách rõ ràng.
Điều này hoàn toàn là sự phù hợp, khi đối tượng không thể xác định thì các bên chủ thể không thể tác động vào đó để thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích của mình. Đồng thời, các bên chủ thể càng không thể tạo ra các quyền và nghĩa vụ một cách cụ thể.
4. Nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ:
Việc thực hiện nghĩa vụ của các bên trong một quan hệ nghĩa vụ không những nhằm thoả mãn những nhu cầu về vật chất, văn hoá tinh thần của mỗi bên mà còn phải hướng tới lợi ích chung của toàn xã hội. Đồng thời còn thể hiện việc chấp hành pháp luật, thể hiện tinh thần tôn trọng truyền thống đạo đức xã hội của các chủ thể trong quá trình thực hiện các giao dịch dân sự. Việc thực hiện nghĩa vụ phải theo nguyên tắc chung được quy định tại Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015 như sau:
– Nguyên tắc thứ nhất: Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đổi xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản.
Đây là một nguyên tắc cơ bản trong tất cả các quan hệ của pháp luật dân sự. Nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ dân sự là nguyên tắc có ý nghĩa rất quan trọng của pháp luật dân sự. Đây là một nguyên tắc được áp dụng trong các quan hệ pháp luật dân sự nói chung và trong từng chế định, quy phạm của pháp luật dân sự.
– Nguyên tắc thứ hai: Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.
Đây là nguyên tắc quan trọng có ý nghĩa đối với toàn bộ quan hệ dân sự, nguyên tắc này vô cùng quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ dân sự, những quan hệ mang tính chất cá nhân. Nguyên tắc này là nguyên tắc đầu tiên trong các nguyên tắc cơ bản của luật dân sự có ý nghĩa nhấn mạnh việc áp dụng nguyên tắc này trong các giao dịch dân sự của đời sống xã hội, vì phần lớn các quan hệ trong đời sống dân sự được thực hiện thông qua hình thức cam kết, thỏa thuận.
– Nguyên tắc thứ ba: Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực.
Nguyên tắc thiện chí, trung thực không phải là một nguyên tắc mới mà được ghi nhận trong pháp luật dân sự từ lâu. Nguyên tắc này hoàn toàn tương thích với nguyên tắc bình đẳng của các chủ thể bởi khi các chủ thể có địa vị pháp lý ngang nhau thì đương nhiên, sự thiện chí, trung thực của mỗi chủ thể sẽ góp phần tạo nên hiệu quả trong việc thực hiện nghĩa vụ của mỗi bên.
Như vậy, khi thực hiện nghĩa vụ dân sự, người có nghĩa vụ phải trung thực, không được lừa dối hoặc có những hành vi cản trở sự tiếp nhận nghĩa vụ đối với người có quyền. Để đảm bảo lợi ích hợp pháp cho người có quyền, việc thực hiện nghĩa vụ của người có nghĩa vụ phải theo tinh thần hợp tác, đúng cam kết. Về nguyên tắc, pháp luật tôn trọng cam kết, thỏa thuận của các chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ nhưng trên nguyên tắc những cam kết, thỏa thuận đó không được vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội.
– Nguyên tắc thứ ba: Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyển, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Đây là nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự Việt Nam cũng như hầu hết các luật dân sự trên thế giới, nguyên tắc này không chỉ được quy định tại khoản 4 Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015 mà còn được cụ thể hóa ở các phần khác của Bộ luật dân sự.
Lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã hội ở đây có thể là lợi ích vật chất cũng có thể là lợi ích tinh thần, thực tế cho thấy có nhiều trường hợp việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự còn xâm phạm trật tự quản lý hành chính, kỷ cương xã hội và vi phạm pháp chế bị coi là vi phạm nguyên tắc này.
– Nguyên tắc thứ năm: Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự”.
Trách nhiệm dân sự là một trong những chế định quan trọng của Bộ luật dân sự năm 2015.
Về nguyên tắc, khi nghĩa vụ dân sự được xác lập hợp pháp thì các bên phải tự nguyện thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Trong trường hợp một bên vi phạm gây thiệt hại cho bên kia thì phải chịu trách nhiệm về hậu quả do hành vi vi phạm của mình gây ra, việc gánh chịu hậu quả pháp lý trong trường hợp đó gọi là trách nhiệm dân sự, là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được áp dụng đối với người vi phạm nghĩa vụ.