Tội vi phạm quy định về bảo vệ hiện nay đang được quy định tại Điều 410 Bộ luật Hình sự năm 2015 với khung hình phạt nghiêm khắc. Đây là hành vi không chấp hành hoặc chấp hành không đúng các quy định về tuần tra, canh gác, áp tải, hộ tống... từ đó gây hậu quả thiệt hại về người, phương tiện kỹ thuật, tài sản hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng đến an toàn kỷ luật của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát chung về Tội vi phạm quy định về bảo vệ:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội vi phạm quy định về bảo vệ:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội vi phạm quy định về bảo vệ:
- 4 4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội vi phạm quy định về bảo vệ:
- 5 5. Phân biệt với Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy:
- 6 6. Một số vướng mắc trong thực tiễn xét xử và hướng xử lý:
- 6.1 6.1. Khó khăn trong việc xác định hành vi “không chấp hành quy định về bảo vệ”:
- 6.2 6.2. Khó khăn trong việc chứng minh hậu quả của hành vi vi phạm:
- 6.3 6.3. Phân định ranh giới giữa lỗi cố ý và lỗi vô ý trong hành vi vi phạm:
- 6.4 6.4. Vướng mắc khi xác định “hậu quả nghiêm trọng khác”:
- 6.5 6.5. Vướng mắc trong xác định đồng phạm và trách nhiệm cá nhân:
1. Khái quát chung về Tội vi phạm quy định về bảo vệ:
1.1. Khái niệm:
Cùng với quá trình hiện đại hóa quân đội, các hoạt động tuần tra, canh gác, áp tải, hộ tống và bảo vệ mục tiêu quân sự ngày càng được chú trọng, đặc biệt tại các khu vực trọng yếu về quốc phòng an ninh. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn xảy ra những vi phạm trong việc chấp hành quy định bảo vệ như: thiếu tinh thần cảnh giác, buông lỏng nhiệm vụ, vi phạm điều lệnh, vi phạm quy trình hoặc thiếu trách nhiệm dẫn đến mất an toàn, hư hỏng phương tiện kỹ thuật, thiệt hại tài sản, thậm chí gây thương vong. Những vi phạm này không chỉ ảnh hưởng đến an toàn đơn vị, làm giảm sức chiến đấu và uy tín của Quân đội nhân dân Việt Nam mà còn tiềm ẩn nguy cơ xâm phạm an ninh quốc gia và bí mật quốc phòng.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội vi phạm quy định về bảo vệ như sau:
“Tội vi phạm quy định về bảo vệ là hành vi của người có nghĩa vụ thực hiện nhiệm vụ tuần tra, canh gác, áp tải, hộ tống hoặc bảo vệ mục tiêu, tài sản, con người, nhưng không chấp hành đúng các quy định, điều lệnh, quy trình hoặc mệnh lệnh của cấp trên dẫn đến gây hậu quả thiệt hại về người, phương tiện kỹ thuật, tài sản hoặc các hậu quả nghiêm trọng khác.”
1.2. Ý nghĩa:
Việc quy định Tội vi phạm quy định về bảo vệ trong Bộ luật Hình sự 2015 mang nhiều ý nghĩa quan trọng, cả về pháp lý, chính trị và xã hội, cụ thể:
- Thứ nhất: Tội vi phạm quy định về bảo vệ được xem là công cụ pháp lý cần thiết để duy trì kỷ luật, trật tự và tính thống nhất trong Quân đội nhân dân Việt Nam, góp phần bảo đảm cho mọi hoạt động bảo vệ, tuần tra, hộ tống diễn ra an toàn và đúng quy định.
- Thứ hai: Việc xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm giúp răn đe, phòng ngừa vi phạm trong nội bộ lực lượng vũ trang và nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần cảnh giác cũng như tác phong chiến đấu của mỗi quân nhân.
- Thứ ba: Quy định về Tội vi phạm quy định về bảo vệ có ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc, thể hiện quan điểm nhất quán của Nhà nước ta trong việc xây dựng quân đội kỷ luật, chính quy, tinh nhuệ; góp phần giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và củng cố niềm tin của nhân dân vào lực lượng vũ trang nhân dân.
- Thứ tư: Tội vi phạm quy định về bảo vệ tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho công tác huấn luyện, giáo dục và kiểm tra nội bộ, bảo đảm mọi cán bộ, chiến sĩ thực hiện đúng điều lệnh, mệnh lệnh, quy trình bảo vệ trong mọi tình huống, kể cả thời bình và thời chiến.
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội vi phạm quy định về bảo vệ hiện nay đang được quy định tại Điều 410 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào không chấp hành quy định về tuần tra, canh gác, áp tải, hộ tống thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm:
a) Làm người được bảo vệ, hộ tống bị tổn thương cơ thể;
b) Làm hư hỏng phương tiện kỹ thuật, thiết bị quân sự;
c) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
d) Gây hậu quả nghiêm trọng khác.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Làm người được bảo vệ, hộ tống chết;
b) Làm mất phương tiện kỹ thuật, thiết bị quân sự;
c) Trong chiến đấu;
d) Trong khu vực có chiến sự;
đ) Lôi kéo người khác phạm tội;
e) Gây thiệt hại về tài sản 500.000.000 đồng trở lên;
g) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng khác.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội vi phạm quy định về bảo vệ:
2.1. Khách thể:
Tội vi phạm quy định về bảo vệ xâm phạm trực tiếp đến: Chế độ tuần tra, canh gác, áp tải và hộ tống trong quân đội.
Điều 26 Luật Sỹ quan quân đội nhân dân Việt Nam năm 1999 (sửa đổi năm 2024) quy định, sĩ quan có các nghĩa vụ sau đây:
- Sẵn sàng chiến đấu, hy sinh bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia xây dựng đất nước, bảo vệ tài sản và lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức; bảo vệ tính mạng, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân;
- Thường xuyên giữ gìn và trau dồi đạo đức cách mạng, học tập, rèn luyện nâng cao trình độ, kiến thức, năng lực về chính trị, quân sự, văn hoá, chuyên môn và thể lực để hoàn thành nhiệm vụ;
- Tuyệt đối phục tùng tổ chức, phục tùng chỉ huy; nghiêm chỉnh chấp hành điều lệnh, điều lệ, chế độ, quy định của quân đội; giữ bí mật quân sự, bí mật quốc gia;
- Thường xuyên chăm lo lợi ích vật chất và tinh thần của bộ đội;
- Gương mẫu chấp hành và vận động Nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tôn trọng và gắn bó mật thiết với Nhân dân.
Đồng thời, bảo vệ là nghĩa vụ quan trọng nhất của người sĩ quan trong quân đội nhân dân bởi mục đích chính của quân đội là xây dựng lực lượng tinh nhuệ, bảo vệ đất nước, đảm bảo an toàn cho nhân dân, cho Bộ máy chính quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam và sự độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đất nước.
Như vậy, khách thể của tội phạm danh này là chế độ tuần tra, canh gác, áp tải và hộ tống trong quân đội.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi thuộc mặt khách quan của Tội vi phạm quy định về bảo vệ được thể hiện ở việc không tuân thủ hoặc thực hiện không nghiêm các quy định, điều lệnh, mệnh lệnh có liên quan đến nhiệm vụ được giao.
“Không chấp hành các quy định” được hiểu là thực hiện nhiệm vụ một cách lơ là, chậm trễ, tùy tiện hoặc không đúng quy trình, quy định, dẫn đến việc vi phạm các nguyên tắc bảo vệ, tuần tra, canh gác, áp tải, hộ tống. Những quy định này được cụ thể hóa trong Điều lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, quy chế công tác bảo vệ, hoặc mệnh lệnh trực tiếp của người chỉ huy có thẩm quyền.
Tuy nhiên, hành vi trên chỉ bị coi là tội phạm khi gây ra hậu quả thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Làm người được bảo vệ, hộ tống bị tổn thương cơ thể;
- Làm hư hỏng phương tiện kỹ thuật, thiết bị quân sự;
- Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
- Gây hậu quả nghiêm trọng khác.
Ngược lại, nếu người thực hiện hành vi vi phạm quy định về bảo vệ nhưng chưa gây ra một trong những hậu quả nêu trên thì hành vi đó chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm mà có thể chỉ bị xử lý kỷ luật hoặc hành chính theo quy định của pháp luật.
2.3. Mặt chủ quan:
Tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý, có thể là vô ý do quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả.
- Vô ý do quá tự tin: Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
- Vô ý do cẩu thả: Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt. Chỉ những người được quy định tại Điều 392 Bộ luật Hình sự mới có thể thực hiện tội phạm. Bao gồm:
- Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng;
- Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện;
- Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu;
- Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội.
Ngoài ra, người phạm tội phải đáp ứng đủ điều kiện về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 (đủ 16 tuổi trở lên).
3. Khung hình phạt của Tội vi phạm quy định về bảo vệ:
Tội vi phạm quy định về bảo vệ theo Điều 410 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
Tội danh này không quy định hình phạt bổ sung.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội vi phạm quy định về bảo vệ:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội vi phạm quy định về bảo vệ được quy định tại khoản 2 Điều 410 Bộ luật Hình sự 2015 với khung hình phạt là phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
- Làm người được bảo vệ, hộ tống chết: Đây là tình tiết tăng nặng phản ánh hậu quả đặc biệt nghiêm trọng về tính mạng con người. Trong nhiệm vụ bảo vệ hoặc hộ tống, đối tượng được bảo vệ thường là cá nhân, tài sản, phương tiện hoặc tài liệu quan trọng liên quan đến quốc phòng an ninh. Khi người thực hiện nhiệm vụ không chấp hành đúng quy định, thực hiện sai quy trình hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm dẫn đến người được bảo vệ, hộ tống bị chết thì hành vi đó thể hiện mức độ nguy hiểm đặc biệt cao. Tình tiết này được xếp vào khung hình phạt từ 03 năm đến 07 năm tù, thể hiện thái độ nghiêm khắc của pháp luật đối với việc gây hậu quả chết người do vi phạm kỷ luật bảo vệ, tuần tra hoặc hộ tống.
- Làm mất phương tiện kỹ thuật, thiết bị quân sự: Phương tiện kỹ thuật và thiết bị quân sự là tài sản đặc biệt quan trọng của Nhà nước, phục vụ trực tiếp cho nhiệm vụ quốc phòng an ninh. Việc để mất các phương tiện, thiết bị này có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng lực chiến đấu, bảo vệ chủ quyền và an toàn của lực lượng vũ trang. Mức độ nguy hiểm của hành vi này được đánh giá cao vì hậu quả không chỉ là thiệt hại vật chất mà còn tiềm ẩn nguy cơ lộ bí mật quốc phòng, thất thoát vũ khí, phương tiện chiến đấu cũng như làm giảm sức mạnh quân đội. Vì vậy, người vi phạm phải chịu hình phạt nghiêm khắc trong khung 03 đến 07 năm tù.
- Trong chiến đấu: Tình tiết này thể hiện mức độ nghiêm trọng đặc biệt của hoàn cảnh phạm tội. Trong khi chiến đấu, sự tuân thủ mệnh lệnh và quy định bảo vệ là yếu tố sống còn để bảo đảm thắng lợi và an toàn cho đơn vị. Việc người lính không chấp hành quy định về bảo vệ, tuần tra, canh gác, áp tải hoặc hộ tống trong bối cảnh chiến đấu có thể gây rối loạn đội hình, mất an toàn cho đồng đội hoặc ảnh hưởng đến kết quả tác chiến, thậm chí gây thương vong hàng loạt. Do đó, hành vi phạm tội trong chiến đấu được coi là tình tiết tăng nặng khung hình phạt của Tội vi phạm quy định về bảo vệ.
- Trong khu vực có chiến sự: Tình tiết này áp dụng cho trường hợp hành vi vi phạm được thực hiện tại khu vực đang có xung đột vũ trang, đụng độ quân sự hoặc đang được đặt trong tình trạng khẩn cấp về quốc phòng. Việc không chấp hành quy định trong bối cảnh này không chỉ gây hậu quả cho đơn vị mà còn đe dọa an toàn khu vực chiến sự, làm suy giảm sức mạnh tổng hợp của quân đội. Vì vậy, hành vi phạm tội trong khu vực có chiến sự được xem là tình tiết tăng nặng đặc biệt, thể hiện sự coi thường kỷ luật quân đội trong tình huống khẩn trương và nguy hiểm cao độ.
- Lôi kéo người khác phạm tội: Đây là tình tiết tăng nặng thể hiện yếu tố chủ mưu, kích động hoặc xúi giục người khác cùng vi phạm quy định bảo vệ. Trong quân đội, tính tổ chức và tinh thần chấp hành mệnh lệnh là nguyên tắc cơ bản. Do đó, người lôi kéo người khác cùng vi phạm được xem là gây ảnh hưởng dây chuyền, phá vỡ kỷ luật và làm suy yếu tinh thần trách nhiệm của đơn vị. Hành vi này không chỉ thể hiện ý thức coi thường pháp luật mà còn đe dọa đến tính thống nhất, sức chiến đấu của lực lượng bảo vệ. Vì vậy, người có hành vi lôi kéo phải chịu trách nhiệm nặng hơn so với người bị lôi kéo và được pháp luật xếp vào khung hình phạt tăng nặng từ 03 đến 07 năm tù.
- Gây thiệt hại về tài sản 500.000.000 đồng trở lên: Tình tiết này phản ánh mức độ thiệt hại vật chất đặc biệt lớn do hành vi vi phạm gây ra. Trong lĩnh vực quốc phòng, tài sản bị thiệt hại thường là phương tiện kỹ thuật, khí tài quân sự, trang thiết bị hoặc cơ sở vật chất phục vụ chiến đấu, có giá trị cao và khó phục hồi. Khi thiệt hại vượt mức 500 triệu đồng thì hậu quả không chỉ về vật chất mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực tác chiến, khả năng bảo vệ an ninh, an toàn đơn vị. Do đó, pháp luật quy định tình tiết này là định khung tăng nặng nhằm đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa và trách nhiệm vật chất trong hoạt động quân sự.
- Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng khác: Tình tiết này có tính bao quát, áp dụng đối với các trường hợp hậu quả vượt quá các mức cụ thể đã nêu. “Hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng khác” có thể bao gồm: làm mất bí mật quân sự, gây tổn thất nghiêm trọng cho đơn vị, làm thất bại nhiệm vụ bảo vệ, gây thương vong nhiều người hoặc làm mất phương tiện chiến đấu chiến lược. Đây là nhóm hậu quả tác động trực tiếp đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn quân đội và kết quả chiến đấu. Do đó người phạm tội phải đối diện với khung hình phạt cao nhất của Tội vi phạm quy định về bảo vệ.
5. Phân biệt với Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy:
Tiêu chí | Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy (Điều 409 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội vi phạm quy định về bảo vệ (Điều 410 Bộ luật Hình sự 2015) |
---|---|---|
Khái niệm | Là hành vi không chấp hành nghiêm chỉnh chế độ trực ban, trực chiến hoặc trực chỉ huy, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến an toàn, sẵn sàng chiến đấu hoặc điều hành tác chiến của đơn vị. | Là hành vi không chấp hành hoặc chấp hành không đúng quy định về tuần tra, canh gác, áp tải, hộ tống, gây thiệt hại về người, phương tiện, tài sản hoặc hậu quả nghiêm trọng khác. |
Mục đích bảo vệ (khách thể) | Xâm phạm chế độ trực ban, trực chiến, trực chỉ huy – một trong những chế độ trọng yếu bảo đảm công tác chỉ huy, điều hành và sẵn sàng chiến đấu trong Quân đội nhân dân Việt Nam. | Xâm phạm kỷ luật, trật tự, an toàn trong công tác bảo vệ, tuần tra, canh gác, áp tải, hộ tống, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh an toàn mục tiêu và phương tiện quân sự. |
Hành vi vi phạm (mặt khách quan) | Hành vi không chấp hành nghiêm túc chế độ trực, như: rời vị trí trực, lơ là nhiệm vụ, không ghi chép, báo cáo, không xử lý tình huống kịp thời… dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. | Hành vi không chấp hành quy định về bảo vệ, như: tuần tra, canh gác, hộ tống, áp tải sai quy trình, bỏ vị trí bảo vệ, thiếu kiểm tra, không cảnh giác, gây thiệt hại về người hoặc tài sản. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. |
6. Một số vướng mắc trong thực tiễn xét xử và hướng xử lý:
6.1. Khó khăn trong việc xác định hành vi “không chấp hành quy định về bảo vệ”:
Trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử, việc xác định hành vi nào được coi là “không chấp hành quy định về bảo vệ” còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều trường hợp người thực hiện nhiệm vụ tuần tra, canh gác, áp tải, hộ tống vi phạm quy định nhưng chưa rõ mức độ vi phạm có đủ yếu tố cấu thành tội phạm hay chỉ dừng lại ở vi phạm kỷ luật hoặc xử phạt hành chính.
Hướng xử lý: Cơ quan tiến hành tố tụng cần dựa trên quy định cụ thể trong điều lệnh, quy chế, mệnh lệnh tác chiến hoặc chỉ thị bảo vệ để xác định mức độ vi phạm. Khi đánh giá thì phải làm rõ ý thức chủ quan, mức độ chấp hành và hậu quả thực tế. Nếu hậu quả chưa đủ nghiêm trọng thì cầnxử lý theo hướng kỷ luật thay vì “hình sự hóa” vấn đề.
6.2. Khó khăn trong việc chứng minh hậu quả của hành vi vi phạm:
Một trong những yếu tố định tội của Điều 410 Bộ luật Hình sự 2015 là hậu quả do hành vi vi phạm gây ra như: thiệt hại về người, phương tiện kỹ thuật, tài sản hoặc hậu quả nghiêm trọng khác. Tuy nhiên trên thực tế, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả xảy ra thường rất phức tạp.
Hướng xử lý: Cần thu thập chứng cứ toàn diện như biên bản ca trực, nhật ký canh gác, mệnh lệnh giao nhiệm vụ, dữ liệu từ camera giám sát, lời khai của người chỉ huy và nhân chứng… Khi hậu quả có yếu tố gián tiếp thì cần đánh giá mức độ lỗi, khả năng phòng ngừa và trách nhiệm cụ thể của từng cá nhân, tránh quy kết dựa trên quan điểm chủ quan.
6.3. Phân định ranh giới giữa lỗi cố ý và lỗi vô ý trong hành vi vi phạm:
Một vấn đề thường gặp là xác định lỗi của người phạm tội – họ có cố ý không chấp hành quy định hay chỉ vô ý thiếu trách nhiệm trong khi thực hiện nhiệm vụ. Trong môi trường quân sự thì ranh giới này rất mong manh.
Hướng xử lý: Khi xem xét lỗi, cơ quan tố tụng cần đánh giá đầy đủ bối cảnh, điều kiện thực hiện nhiệm vụ, mức độ huấn luyện và khả năng nhận thức của người phạm tội. Nếu hành vi chỉ mang tính vô ý, thiếu kinh nghiệm, không có mục đích trốn tránh hoặc xem thường quy định pháp luật thì có thể chuyển hướng xử lý kỷ luật hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
6.4. Vướng mắc khi xác định “hậu quả nghiêm trọng khác”:
Khái niệm “hậu quả nghiêm trọng khác” trong khoản 1 Điều 410 và “hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng khác” trong khoản 2 Điều 410 là khái niệm định tính. Hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này dẫn đến việc áp dụng không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.
Hướng xử lý: Cần có hướng dẫn thống nhất từ Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hoặc Thông tư liên tịch của Bộ Quốc phòng – Bộ Công an – Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định cụ thể tiêu chí xác định mức độ hậu quả: Thiệt hại vật chất, thiệt hại về người, ảnh hưởng đến nhiệm vụ chiến đấu hoặc tác động đến an ninh quốc gia.
6.5. Vướng mắc trong xác định đồng phạm và trách nhiệm cá nhân:
Trong thực tế, nhiệm vụ bảo vệ, tuần tra, canh gác, áp tải hoặc hộ tống thường được thực hiện theo tổ, kíp hoặc nhóm công tác… Khi xảy ra vi phạm, việc xác định ai là người chịu trách nhiệm chính, ai là người đồng phạm hoặc người bị lôi kéo thường rất phức tạp.
Hướng xử lý: Cần phân hóa rõ vai trò, mức độ lỗi và hành vi cụ thể của từng cá nhân. Người giữ vị trí chỉ huy hoặc người khởi xướng, lôi kéo người khác vi phạm phải chịu trách nhiệm nặng hơn những người còn lại. Những người bị ảnh hưởng và không trực tiếp gây ra hậu quả thì có thể xem xét để áp dụng hình thức xử lý kỷ luật nội bộ.
THAM KHẢO THÊM: