Trong chiến đấu, hành vi chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm không chỉ làm thất thoát tài sản mà còn vi phạm nghiêm trọng kỷ luật quân đội, làm ảnh hưởng đến uy tín và sức chiến đấu của lực lượng vũ trang. Chính vì vậy, Bộ luật Hình sự năm 2015 hiện nay đã quy định Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm tại Điều 419 nhằm xử lý nghiêm minh và răn đe những hành vi xâm hại đến tài sản và kỷ luật quân sự.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm:
- 2 2. Cấu thành Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm:
- 4 4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 419 Bộ luật Hình sự:
- 5 5. Phân biệt với Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản:
1. Khái quát về Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm:
1.1. Khái niệm:
Trong hoạt động quân sự thì chiến lợi phẩm không chỉ mang giá trị vật chất mà còn có ý nghĩa chính trị, chiến lược và tinh thần sâu sắc, thể hiện kết quả của quá trình chiến đấu, hy sinh và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, hành vi chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm là vi phạm nghiêm trọng kỷ luật quân đội, xâm phạm đến lợi ích quốc gia, làm giảm uy tín và sức chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam. Hành vi này sẽ bị xử lý hình sự theo Điều 419 Bộ luật Hình sự năm 2015.
“Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm là hành vi lợi dụng hoàn cảnh chiến đấu hoặc khi thu dọn chiến trường để chiếm đoạt hoặc cố ý hủy hoại chiến lợi phẩm – tức là những tài sản, vũ khí, phương tiện, tài liệu, vật tư thu được từ địch trong chiến đấu. Đây là hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu của Nhà nước, vi phạm nghiêm kỷ luật quân đội và gây tổn hại đến lợi ích quốc phòng, an ninh quốc gia.”
1.2. Ý nghĩa:
- Thứ nhất, bảo vệ tài sản và lợi ích quốc gia trong hoạt động quân sự. Chiến lợi phẩm là tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, có ý nghĩa chiến lược trong nghiên cứu và củng cố quốc phòng. Việc quy định tội danh này giúp ngăn ngừa tình trạng lợi dụng hoàn cảnh chiến đấu để chiếm đoạt, tiêu hủy tài sản của Nhà nước; qua đó đảm bảo mọi chiến lợi phẩm được quản lý, sử dụng đúng mục đích và phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng an ninh.
- Thứ hai, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đạo đức quân đội. Kỷ luật là sức mạnh của quân đội. Hành vi chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm thể hiện sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, ý thức tổ chức kỷ luật của quân nhân; làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tinh thần đoàn kết, lòng tin của đồng đội và nhân dân đối với lực lượng vũ trang. Việc xử lý nghiêm minh hành vi này khẳng định tính nghiêm khắc và công bằng của pháp luật quân sự, đồng thời giáo dục, răn đe và củng cố tinh thần thượng tôn kỷ luật trong quân đội.
- Thứ ba, bảo đảm uy tín và hình ảnh của Quân đội nhân dân Việt Nam. Quân đội là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc và hình ảnh của quân nhân luôn gắn liền với sự trung thực, trong sạch và kỷ luật. Hành vi chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm nếu không được xử lý nghiêm sẽ làm mất lòng tin của nhân dân và ảnh hưởng đến uy tín và danh dự của Quân đội. Việc quy định tội danh này thể hiện quan điểm nhất quán của Nhà nước về xây dựng quân đội chính quy, kỷ luật và đạo đức, bảo vệ thanh danh của người chiến sĩ cách mạng.
- Thứ tư, góp phần củng cố an ninh quốc gia và trật tự pháp luật. Hành vi chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm không chỉ làm thất thoát tài sản mà còn cản trở việc thu thập thông tin, nghiên cứu kỹ thuật quân sự và khai thác tài liệu từ địch – những yếu tố quan trọng trong bảo đảm an ninh quốc gia. Việc xử lý nghiêm hành vi này giúp bảo vệ trật tự pháp luật trong quân đội, giữ vững sức mạnh quốc phòng, góp phần bảo đảm an ninh chính trị và ổn định đất nước.
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm hiện nay đang được quy định tại Điều 419 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào trong chiến đấu hoặc khi thu dọn chiến trường mà chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Là chỉ huy hoặc sĩ quan;
b) Chiến lợi phẩm trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến uy tín quân đội;
d) Chiến lợi phẩm có giá trị trong quân sự;
đ) Gây hậu quả nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
a) Chiến lợi phẩm trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Chiến lợi phẩm có giá trị đặc biệt trong quân sự;
c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.”
2. Cấu thành Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm:
2.1. Khách thể:
Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm xâm phạm trực tiếp đến kỷ luật chiến trường và quyền quản lý nhà nước đối với chiến lợi phẩm.
“Chiến lợi phẩm” là những vũ khí, quân trang, quân dụng của địch bỏ lại trên chiến trường.
“Vũ khí quân dụng” là vũ khí được chế tạo, sản xuất bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật, thiết kế của nhà sản xuất hợp pháp, được trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân và các lực lượng khác. Bao gồm (khoản 2 Điều 2 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2014):
- Súng cầm tay, súng vác vai, vũ khí hạng nhẹ, vũ khí hạng nặng, đạn sử dụng cho các loại vũ khí này; các loại bom, mìn, lựu đạn, ngư lôi, thủy lôi và vũ khí khác thuộc danh mục do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành, trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân và các lực lượng khác theo quy định của Luật này;
- Súng bắn đạn ghém, súng nén khí, súng nén hơi, đạn sử dụng cho các loại súng này thuộc danh mục do Bộ trưởng Bộ Công an ban hành;
- Vũ khí quy định tại điểm a khoản 4 Điều này trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân và các lực lượng khác theo quy định của Luật này để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;
- Súng săn, vũ khí quy định tại điểm a khoản 4, vũ khí quy định tại điểm a khoản 5 và dao có tính sát thương cao quy định tại khoản 6 Điều này sử dụng với mục đích xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người trái pháp luật;
- Linh kiện cơ bản của súng quy định tại điểm a khoản này bao gồm: thân súng, nòng súng, bộ phận cò, bộ phận khóa nòng, kim hỏa;
- Linh kiện cơ bản của súng quy định tại điểm b khoản này bao gồm: thân súng, bộ phận cò;
- Vũ khí khác có tính năng, tác dụng, khả năng gây sát thương tương tự như vũ khí quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này, không thuộc danh mục do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an ban hành.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi thuộc mặt khách quan của tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm là hành vi chiếm đoạt hoặc cố ý làm hư hỏng, tiêu hủy chiến lợi phẩm trong chiến đấu hoặc khi thu dọn chiến trường. Đây là những hành vi xâm phạm nghiêm trọng đến tài sản Nhà nước, trật tự kỷ luật quân đội và lợi ích quốc phòng.
- Chiếm đoạt chiến lợi phẩm: Là hành vi chiếm giữ, lấy tài sản thu được trên chiến trường để làm của riêng, trái với quy định về quản lý và bàn giao chiến lợi phẩm. Hành vi này có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như trộm cắp, công nhiên chiếm đoạt, lạm dụng tín nhiệm, tham ô hoặc cướp đoạt tài sản. Mục đích của người phạm tội là chiếm hữu trái phép chiến lợi phẩm vốn thuộc quyền sở hữu của Nhà nước và phải được quản lý tập trung theo quy định của quân đội.
- Hủy hoại chiến lợi phẩm: Là hành vi làm mất hoàn toàn hoặc làm giảm đáng kể giá trị, tính năng sử dụng của chiến lợi phẩm, khiến tài sản đó không còn khả năng phục hồi hoặc chỉ có thể phục hồi với chi phí lớn. Các hành vi hủy hoại thường thấy gồm đốt cháy, đập phá, bắn hỏng hoặc sử dụng sai mục đích dẫn đến hư hỏng nghiêm trọng. Trường hợp chiến lợi phẩm là vũ khí, khí tài, phương tiện kỹ thuật hoặc tài liệu có giá trị quân sự, việc làm mất một phần tính năng hoặc giá trị sử dụng cũng được coi là hành vi hủy hoại chiến lợi phẩm.
Cần lưu ý: Chỉ khi hành vi chiếm đoạt hoặc hủy hoại diễn ra trong chiến đấu hoặc trong quá trình thu dọn chiến trường mới bị coi là phạm tội theo Điều 419 Bộ luật Hình sự 2015. Nếu tài sản đã được thu hồi, quản lý hoặc bàn giao cho đơn vị có thẩm quyền mà sau đó bị chiếm đoạt hoặc hủy hoại, hành vi này sẽ bị xử lý theo các tội xâm phạm sở hữu tương ứng (như tội trộm cắp, tham ô, hủy hoại tài sản…).
Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Chỉ cần người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm trong bối cảnh nêu trên, tội phạm được coi là hoàn thành kể từ thời điểm hành vi xảy ra mà không phụ thuộc vào thiệt hại thực tế.
2.3. Mặt chủ quan:
Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm được thực hiện do lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp.
Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả do hành vi của mình gây ra, mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm là chủ thể đặc biệt. Chỉ những người được quy định tại Điều 392 Bộ luật Hình sự mới 2015 có thể thực hiện tội phạm. Bao gồm:
- Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng;
- Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện;
- Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu;
- Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội.
Ngoài ra, người phạm tội phải đáp ứng đủ điều kiện về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015.
3. Khung hình phạt của Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm:
Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm theo ĐIều 419 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 419 Bộ luật Hình sự:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 419 Bộ luật Hình sự 2015:
4.1. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 419:
- Là chỉ huy hoặc sĩ quan: Đây là tình tiết tăng nặng phản ánh tính chất đặc biệt nghiêm trọng về chủ thể của hành vi phạm tội. Người giữ chức vụ chỉ huy hoặc sĩ quan trong quân đội có trách nhiệm nêu gương, quản lý và bảo đảm kỷ luật chiến đấu; đồng thời là người được giao quyền chỉ đạo, phân phối hoặc bảo quản chiến lợi phẩm. Khi chính người có chức vụ lợi dụng vị trí đó để chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm, hành vi không chỉ xâm phạm tài sản mà còn làm suy giảm niềm tin, kỷ cương và uy tín của Quân đội nhân dân Việt Nam, gây tác động tiêu cực tới tinh thần chiến đấu và tính nghiêm minh của pháp luật quân sự. Vì vậy, người phạm tội trong trường hợp này phải chịu mức hình phạt cao hơn nhằm bảo đảm răn đe và giữ vững kỷ luật quân đội.
- Chiến lợi phẩm trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng: Tình tiết này thể hiện mức độ thiệt hại vật chất do hành vi phạm tội gây ra. Khi giá trị chiến lợi phẩm bị chiếm đoạt hoặc hủy hoại đạt mức từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng thì hậu quả không còn dừng ở phạm vi cá nhân mà ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản Nhà nước, đến thành quả chiến đấu và bảo đảm hậu cần quân sự. Do đó, hành vi phạm tội trong trường hợp này bị xem là có tính chất nghiêm trọng hơn nên đòi hỏi hình phạt cao hơn để tương xứng với thiệt hại gây ra.
- Gây ảnh hưởng xấu đến uy tín quân đội: Uy tín của Quân đội nhân dân là biểu tượng của kỷ luật, lòng trung thành và đạo đức cách mạng. Khi người phạm tội có hành vi chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm (đặc biệt trong bối cảnh chiến đấu hoặc sau chiến đấu), hành vi đó không chỉ làm tổn hại đến hình ảnh của quân đội trong nhân dân mà còn gây dư luận tiêu cực, làm suy giảm tinh thần đoàn kết và niềm tin vào lực lượng vũ trang.
- Chiến lợi phẩm có giá trị trong quân sự: Tình tiết này nhấn mạnh đến giá trị sử dụng đặc biệt của chiến lợi phẩm trong công tác quốc phòng. Chiến lợi phẩm có thể là vũ khí, khí tài, tài liệu, phương tiện kỹ thuật hoặc công nghệ quân sự thu giữ được từ địch, có ý nghĩa chiến thuật, chiến lược hoặc khoa học kỹ thuật quan trọng. Việc chiếm đoạt hoặc hủy hoại những chiến lợi phẩm này không chỉ gây thiệt hại vật chất mà còn làm mất đi cơ hội nghiên cứu, khai thác thông tin, phục vụ quốc phòng, gây thiệt hại đến an ninh quốc gia. Do đó, hành vi phạm tội trong trường hợp này bị xem là có tính chất đặc biệt nghiêm trọng khi định khung hình phạt của Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm.
- Gây hậu quả nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng: Đây là tình tiết tăng nặng về hậu quả thể hiện mức độ thiệt hại thực tế đối với Nhà nước, quân đội hoặc xã hội. Hậu quả nghiêm trọng có thể là thiệt hại lớn về tài sản, ảnh hưởng đến kết quả chiến đấu, gây thương vong hoặc tổn thất cho lực lượng quân đội hoặc làm gián đoạn công tác chỉ huy, hậu cần, vận chuyển và bảo vệ chiến lợi phẩm. Khi hậu quả vượt quá phạm vi thiệt hại thông thường, hành vi sẽ bị xử lý ở khung hình phạt cao hơn nhằm tương xứng với mức độ nguy hiểm thực tế mà người phạm tội gây ra.
4.2. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 419:
- Chiến lợi phẩm trị giá 500.000.000 đồng trở lên: Đây là tình tiết định khung tăng nặng cao nhất về thiệt hại vật chất. Khi giá trị chiến lợi phẩm bị chiếm đoạt hoặc hủy hoại đạt mức từ 500 triệu đồng trở lên thì thiệt hại là đặc biệt lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản quốc gia và công tác quân sự. Trong nhiều trường hợp, đây còn là tài sản chiến lược, có thể gây tổn thất nghiêm trọng đến năng lực quốc phòng hoặc ảnh hưởng đến cục diện chiến đấu.
- Chiến lợi phẩm có giá trị đặc biệt trong quân sự: Tình tiết này mang tính chất định lượng, phản ánh giá trị vượt trội của chiến lợi phẩm về tầm chiến lược, khoa học, kỹ thuật hoặc tình báo quân sự. Những chiến lợi phẩm này có thể chứa bí mật công nghệ, dữ liệu chiến lược hoặc trang bị hiện đại có giá trị đặc biệt đối với quốc phòng. Việc chiếm đoạt hoặc hủy hoại chúng không chỉ gây thiệt hại vật chất cực lớn mà còn đe dọa trực tiếp đến an ninh quốc gia và khả năng phòng thủ của đất nước. Do đó, pháp luật quy định tình tiết này ở khung hình phạt cao nhất của Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm nhằm đảm bảo tính răn đe tuyệt đối.
- Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng: Tình tiết này thể hiện đỉnh cao của hậu quả xã hội mà hành vi phạm tội có thể gây ra. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng có thể bao gồm mất mát to lớn về tài sản quân sự, gây chết người, làm mất an toàn chiến đấu, làm thất bại nhiệm vụ quân sự hoặc ảnh hưởng đến an ninh quốc gia… Khi hậu quả ở mức độ này, hành vi phạm tội không còn đơn thuần là vi phạm kỷ luật hay chiếm đoạt tài sản mà trở thành mối đe dọa trực tiếp đến sự an toàn và danh dự của Quân đội nhân dân Việt Nam. Vì vậy, người phạm tội sẽ phải chịu mức hình phạt nghiêm khắc nhất trong khung từ 5 đến 10 năm tù.
5. Phân biệt với Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản:
Tiêu chí | Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm (Điều 419 Bộ luật Hình sự 2015) |
Vị trí trong Bộ luật Hình sự | Nằm trong Chương XVI – Các tội xâm phạm sở hữu, điều chỉnh hành vi vi phạm quyền sở hữu tài sản của cá nhân hoặc tổ chức. | Nằm trong Chương XXVI – Các tội phá hoại việc phòng thủ, an ninh quốc gia, vi phạm quy định về chiến đấu, điều chỉnh hành vi xâm phạm tài sản trong lĩnh vực quân sự. |
Khách thể bị xâm phạm | Quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân và tổ chức trong đời sống dân sự. | Tài sản Nhà nước thuộc phạm vi quản lý quân đội. Cụ thể là chiến lợi phẩm có giá trị vật chất, chiến lược hoặc quân sự. |
Đối tượng tác động | Là tài sản của người khác. Có thể là vật, tiền, phương tiện sản xuất, di vật hoặc cổ vật… (Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015). | Là chiến lợi phẩm thu được trong chiến đấu hoặc khi thu dọn chiến trường, bao gồm vũ khí, khí tài, phương tiện, tài liệu, vật tư quân sự… |
Bối cảnh, thời điểm phạm tội | Xảy ra trong đời sống xã hội thông thường, không phụ thuộc vào tình huống chiến đấu hay quân sự. | Xảy ra trong chiến đấu hoặc khi thu dọn chiến trường, gắn với hoạt động quân sự và nhiệm vụ quốc phòng. |
Hành vi khách quan | Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác, tức là làm mất hoàn toàn hoặc giảm giá trị sử dụng của tài sản đó. | Chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm. Tức là chiếm giữ trái phép hoặc làm hư hỏng, tiêu hủy chiến lợi phẩm thu được trong chiến đấu. |
Mục đích, động cơ | Thường mang động cơ tư lợi, trả thù cá nhân hoặc gây thiệt hại cho người khác. | Mang động cơ vụ lợi, vô kỷ luật hoặc phá hoại, làm thất thoát tài sản quân sự, ảnh hưởng đến uy tín và sức mạnh chiến đấu của quân đội. |
Chủ thể của tội phạm | Bất kỳ cá nhân nào có năng lực trách nhiệm hình sự (từ đủ 16 tuổi theo Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015). | Chủ yếu là quân nhân, người đang thực hiện nhiệm vụ quân sự hoặc người tham gia chiến đấu, thu dọn chiến trường. |
Yếu tố lỗi | Lỗi cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hậu quả và mong muốn hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. | Lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm là vi phạm kỷ luật quân đội nhưng vẫn thực hiện. |
Mức độ nguy hiểm cho xã hội | Ảnh hưởng ở phạm vi dân sự, chủ yếu gây thiệt hại kinh tế và trật tự xã hội. | Ảnh hưởng ở phạm vi quân sự – quốc gia, gây tổn hại đến tài sản quốc phòng, uy tín quân đội và sức chiến đấu của lực lượng vũ trang. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Khung 4: Phạt tù từ 10 năm đến 20 năm. | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Không quy định hình phạt bổ sung. |
THAM KHẢO THÊM: