Trong cả lĩnh vực về lý luận và thực tiễn thì việc xác định nguồn của Luật hình sự đều có ý nghĩa quan trọng. Nguồn của luật hình sự bao gồm cả nguồn văn bản quy phạm và các nguồn khác ngoài văn bản quy phạm. Như vậy, các hình thức này bao gồm những nguồn nào và vị trí của từng nguồn ra sao.
Mục lục bài viết
1. Nguồn của luật hình sự là gì?
Nguồn của pháp luật hình sự có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp hoặc theo nghĩa nguồn trực tiếp và nguồn gián tiếp.
Chúng tôi quan niệm nguồn của pháp luật hình sự là các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung quy định về tội phạm, về hình phạt. Trong đó, quy định về tội phạm được hiểu là sự mô tả hành vi bị coi là tội phạm và đặt tội danh cho hành vi đó. Cách hiểu này tương đương với cách hiểu về nguồn của pháp luật hình sự theo nghĩa hẹp cũng như với cách hiểu về nguồn trực tiếp của pháp luật hình sự. Theo cách hiểu này thì những văn bản quy phạm pháp luật có tính giải thích, hướng dẫn hoặc có tính chất là căn cứ được chỉ dẫn đến đều không phải là nguồn của pháp luật hình sự.
Ví dụ: Các thông tư liên tịch hay các nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một hoặc một số điều luật của BLHS; các luật thuộc các lĩnh vực khác nhau mà trong đó có các điều luật có thể được viện dẫn đến khi áp dụng một điều luật cụ thể của BLHS. Ví dụ: Khi xét xử về các tội thuộc nhóm tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ theo BLHS thì cần phải viện dẫn các điều luật có liên quan của Luật giao thông đường bộ hoặc khi xét xử về các tội thuộc nhóm tội phạm về môi trường thì cần phải viện dẫn các điều luật có liên quan của Luật bảo vệ môi trường; v.v..
Tóm lại, nguồn của ngành luật hình sự có thể là bộ luật hình sự, các luật hình sự và các luật có quy phạm pháp luật hình sự. Nhiều quốc gia trên thế giới xây dựng ngành luật hình sự theo hướng có BLHS và các luật có quy phạm pháp luật hình sự. Trong đó, BLHS quy định những vấn đề chung về tội phạm và hình phạt cũng như quy định những tội danh thông thường; còn các luật có quy phạm pháp luật hình sự quy định tội danh thuộc những lĩnh vực riêng biệt. Thuộc các quốc gia xây dựng ngành luật hình sự theo hướng này có CHLB Đức. Theo các nhà khoa học của CHLB Đức, phạm vi của luật hình sự vượt ra ngoài BLHS; có số lượng lớn các luật thuộc tất cả các lĩnh vực của pháp luật chứa đựng các quy phạm pháp luật quy định hành vi bị đe doạ bị xử lí bằng hình phạt. Người ta gọi tập hợp các quy phạm pháp luật hình sự nằm ngoài BLHS là Pháp luật hình sự phụ (Nebenstrafrecht).
Như vậy, một khái niệm ít quen thuộc được phát sinh từ đây – khái niệm “Pháp luật hình sự phụ”. Pháp luật hình sự phụ bao gồm tất cả các quy phạm pháp luật hình sự không được quy định trong BLHS mà được quy định trong các luật khác.Trong số các luật này có một số luật như Luật về công nghệ gen; Bộ luật về lương thực, thực phẩm; Luật về an ninh dữ liệu từ các vệ tinh; v.v.. Các luật này có nội dung chính là điều chỉnh các vấn đề thuộc lĩnh vực chuyên biệt nhưng trong đó có một hoặc một số điều luật xác định những hành vi bị coi là vi phạm và tội phạm cũng như quy định các biện pháp xử lí kèm theo, trong đó có hình phạt.
Ví dụ: Trong Luật về công nghệ gen, Điều 38 quy định về xử phạt hành chính và Điều 39 quy định trách nhiệm hình sự của các hành vi bị coi là tội phạm hoặc trong Bộ luật về lương thực, thực phẩm có hai điều luật là Điều 58 và Điều 59 quy định các hành vi bị coi là tội phạm v.v.. Những điều luật quy định về tội phạm cũng như về vi phạm hành chính trong các luật chuyên biệt này là một bộ phận của các luật chuyên biệt nhưng lại có ý nghĩa góp phần đảm bảo cho các luật chuyên biệt được tuân thủ trong thực tế.
Từ sự phân tích nêu trên, tác giả bài viết đề xuất khái niệm nguồn của luật hình sự như sau: Nguồn của luật hình sự là các hình thức bên ngoài của luật hình sự, đồng thời là căn cứ pháp lý trực tiếp cho việc xác định tội phạm, hình phạt và các vấn đề khác về trách nhiệm hình sự của người phạm tội.
– Nguồn của luật hình sự trong tiếng anh là Sources of criminal law
– Định nghĩa về nguồn của luật hình sự trong tiếng anh được hiểu là:
Criminal law sources can be criminal code, criminal laws and criminal law laws. Many countries around the world have built criminal law in the direction of Penal Code and criminal law. In which, the Penal Code stipulates general issues of crime and punishment as well as regulations of common crimes; while the laws have criminal law stipulating crimes in separate fields.
– Một số từ vựng tiêu biểu liên quan trong cùng lĩnh vực hình sự như:
1.Criminal Law: luật hình sự
2. Arraignment: sự luận tội
3. Accountable: có trách nhiệm
4. Arrest: bắt giữ
5. Activism: tính tích cực của thẩm phán
6. Actus reus: khách quan của tội phạm
7. Adversarial process: quá trình tranh tụng
8. Amicus curiae: thân hữu của
9. Appellate jurisdiction: thẩm quyền phúc thẩm
10. Accredit: ủy quyền,ủy thác
2. Phân tích các nguồn của luật hình sự Việt Nam:
Về mặt lý luận, nguồn của pháp luật nói chung bao gồm: Tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản. Tuy nhiên, tại Việt Nam, nguồn của Luật hình sự chỉ có nguồn văn bản.
Sự phát triển nguồn văn bản của Luật hình sự Việt Nam hiện hành chịu sự chi phối mạnh mẽ từ các quy định mang tính nguyên tắc của Bộ luật hình sự (BLHS). Điều 2 BLHS năm 1999 quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được quy định trong BLHS mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Khoản 1 Điều 8 BLHS quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS…”. Từ quy định của hai điều luật này, xuất hiện trong khoa học pháp lý quan điểm cho rằng BLHS là nguồn duy nhất của Luật hình sự Việt Nam.
Nếu coi BLHS là nguồn duy nhất của luật hình sự thì cũng có nghĩa là loại bỏ các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật ra khỏi phạm vi nguồn văn bản của luật hình sự. Điều này là không hợp lý bởi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật coi các Thông tư liên tịch và Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán
Nghiên cứu tổng thể về thực trạng nguồn văn bản của Luật hình sự Việt Nam hiện hành, có thể rút ra một số nhận xét dưới đây:
Một là, nguồn văn bản của luật hình sự Việt Nam được xây dựng theo hướng hiện đại. Tính hiện đại của nguồn văn bản của Luật hình sự Việt Nam thể hiện qua: 1) Kỹ thuật pháp điển hóa ở trình độ cao của BLHS; 2) Tính chuẩn mực của các quy phạm quy định những nguyên tắc nền tảng của luật hình sự hiện đại như nguyên tắc hành vi, nguyên tắc tính có lỗi, nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt, nguyên tắc nhân đạo, v.v…; 3) Sự phân chia hợp lý các nhóm tội phạm theo khách thể loại, tạo điều kiện cho việc thiết kế bộ máy đấu tranh tương ứng.
Hai là, nguồn văn bản của luật hình sự Việt Nam hiện nay, về cơ bản, đã bắt kịp và tương đối phù hợp với thực trạng phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam, với truyền thống và đặc điểm tâm lý, tính cách của người Việt Nam. Trong 25 năm qua, tình hình kinh tế – xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi to lớn dẫn đến sự thay đổi diện mạo của toàn bộ hệ thống pháp luật, trong đó có các quy định luật hình sự. Có thể thấy rằng, nhà lập pháp hình sự nước ta đã giải quyết được một cách hài hòa mâu thuẫn giữa sự thay đổi tất yếu mang tính tiến bộ của pháp luật với yêu cầu về sự ổn định mang tính nội tại bên trong nó, mâu thuẫn giữa hiện đại với truyền thống, giữa hội nhập với bản sắc văn hóa và tâm lý người Việt. Nhìn chung, không xuất hiện hiện tượng “sốc” pháp luật khi các văn bản pháp luật hình sự mới được ban hành.
Ba là, bên cạnh những ưu điểm nêu trên, nguồn văn bản của Luật hình sự Việt Nam có những nhược điểm chưa được khắc phục là: 1) Tính thiếu cụ thể và rõ ràng trong quy định của BLHS và một số văn bản hướng dẫn thi hành; 2) Sự thiếu đồng bộ giữa các văn bản quy phạm pháp luật hình sự; 3) Còn tồn tại tình trạng “nguồn phi chính thức” trong nguồn văn bản của luật hình sự Việt Nam.
3. Ví dụ minh họa:
Dưới đây là một vài ví dụ mang tính minh họa cho những nhận định này.
Về tính thiếu cụ thể và rõ ràng trong quy định của BLHS và một số văn bản hướng dẫn thi hành. Theo quy định của Điều 245 BLHS về Tội gây rối trật tự công cộng thì chỉ xử lý hình sự người có hành vi gây rối trật tự công cộng nếu họ đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án về tội này hoặc “gây hậu quả nghiêm trọng”. BLHS không quy định rõ thế nào là “hậu quả nghiêm trọng” được gây ra bởi hành vi gây rối trật tự công cộng. Muốn xác định được tình tiết này, phải căn cứ vào mục 5 Phần I của Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của HĐTP TANDTC.
Điểm a và b tiểu mục 5.1 của Nghị quyết nói trên giải thích tình tiết “hậu quả nghiêm trọng” để xử lý theo khoản 1 Điều 245 BLHS là gây “cản trở, ách tắc giao thông đến dưới 2 giờ” và gây “cản trở sự hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân”. Không rõ người có hành gây rối trật tự công cộng phải gây cản trở, ách tắc giao thông từ thời gian bao lâu đến 2 giờ đồng hồ hoặc gây cản trở hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang ở mức độ nào mới phải chịu trách nhiệm hình sự? Tội gây rối trật tự công cộng không phải là trường hợp duy nhất được quy định và giải thích, hướng dẫn theo cách này. Cũng cần thiết phải bổ sung thêm rằng, đây là quy định về tội phạm đã được hướng dẫn áp dụng; BLHS còn nhiều điều luật khác chưa được hướng dẫn, giải thích cụ thể mặc dù đã được triển khai thực hiện hơn 10 năm qua.
Liên quan đến đến vấn đề về thiếu đồng bộ giữa các văn bản quy phạm pháp luật hình sự. Nghiên cứu, so sánh hiệu lực thi hành của các Thông tư liên tịch và Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số điều của BLHS, có thể nhận thấy: các Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC thường có hiệu lực hồi tố(4), trong khi đó các Thông tư liên tịch thì không quy định hiệu lực này. Nếu giải thích rằng Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC là văn bản hướng dẫn nghiệp vụ ngành thì không chính xác bởi theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đây là một loại văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Nếu cho rằng Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC quy định nhiều vấn đề có lợi cho đối tượng áp dụng hơn các Thông tư liên tịch thì cũng không thỏa đáng, vì trong những năm gần đây, cả Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC và các Thông tư liên tịch đều có cùng nội dung giải thích những điểm chưa rõ của các dấu hiệu cấu thành tội phạm mà BLHS mô tả.
Với những tiền đề được xác lập bởi truyền thống, nguồn văn bản đã và sẽ là loại nguồn chủ đạo của luật hình sự Việt Nam. Việc nghiên cứu kinh nghiệm của nước ngoài cũng như của cha ông chắc chắn sẽ là điều cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của loại nguồn này nói riêng, của cả hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam nói chung.