Các hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là gì? Các hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi theo Bộ luật hình sự 2015? Các quy định khác về trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội?
Các hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội bao gồm 04 hình phạt chính đó là: cảnh cáo; phạt tiền; cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn được quy định trong
1. Các hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là gì?
Các hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định tại Chương XII của Bộ luật hình sự 2015, trong đó có các hình phạt như: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn.
2. Các hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi theo Bộ luật hình sự 2015
Cảnh cáo
Hình phạt này được quy định chung cho tất cả các trường hợp phạm tội thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ. BLHS không có quy định bổ sung đối với hình phạt khi áp dụng cho người dưới 18 tuổi phạm tội.
Phạt tiền (Điều 99 BLHS)
– Hình phạt này chỉ là hình phạt chính đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Ngoài các điều kiện được quy định chung (Điều 35 BLHS), điều luật bổ sung điều bổ hai điều kiện cho phép áp dụng hình phạt này đối với người dưới 18 tuổi phạm tội: Khi phạt tiền người dưới 18 tuổi phạm tội cần tuân thủ các quy định tại các Điều 35 và Điều 99 BLHS. Mức phạt tiền đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quyết định theo tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động giá và không được quá 1/2 mức tiền phạt mà điều luật quy định.
Cải tạo không giam giữ (Điều 100 BLHS)
– Ngoài điều kiện chung (có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng) (Điều 36 BLHS), điều luật quy định cụ thể về điều kiện cho phép áp dụng hình phạt này trong hai trường hợp:
– Đối với người phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, hình phạt này được áp dụng nếu tội phạm đã thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng;
– Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng. Về các nội dung khác của hình phạt cải tạo không giam giữ, có hai điểm cần chú ý: Không khẩu trừ thu nhập đối với người phạm tội dưới 18 tuổi bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ; Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi không được vượt quá 1/2 thời hạn mà điều luật quy định.
Tù có thời hạn (Điều 101 BLHS)
– Ngoài những nội dung có liên quan đến hình phạt tù có thời hạn được thế hiện ở các nguyên tắc xử lí người dưới 18 tuổi phạm tội, cần chú ý các điểm sau khi áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với những người này: Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 3/4 mức phạt tù mà điều luật quy định (khoản 1 Điều 101);
– Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm the tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 1/2 mức phạt tù mà điều luật quy định (khoản 2 Điều 101).
3. Các quy định khác về trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội
Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt (Điều 102 BLHS)
BLHS năm 1999 chưa có quy định riêng về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt mà người thực hiện tội phạm là người dưới 18 tuổi. BLHS năm 2015 bổ sung 01 điều (Điều 102) về vấn đề này.
Theo đó, có những nội dung quy định bổ sung
+ Đối với chuẩn bị phạm tội cho Điều 57 BLHS như sau:
– Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về hành vi chuẩn bị phạm tội là không quá 1/3 mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt được quy định cho chuẩn bị phạm tội (khoản 2 Điều 102 BLHS). Theo khoản 3 Điều 14 BLHS, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về hành vi trong giai đoạn chuẩn bị đối với hai tội là tội giết người (Điều 123) và tội cướp tài sản (Điều 168). Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi về hành vi chuẩn bị phạm tội là không quá 1/2 mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt được quy định cho chuẩn bị phạm tội (khoản 2 Điều 102 BLHS). Đối với phạm tội chưa đạt
– Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội chưa đạt không được quá 1/3 mức hình phạt cao nhất có thể áp dụng đối với đối tượng này các điều 100 và 101 BLHS); Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội chưa đạt không được quá 1/2 mức hình phạt cao nhất có thể áp dụng đối với đối tượng này (các điều 99, 100 và 101 BLHS).
Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội (Điều 103 BLHS)
Nguyên tắc chung về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội được quy định tại Điều 55 của BLHS và nội dung này được đề cập ở chương 14.
Tuy nhiên, đối với trường hợp phạm nhiều tội mà người thực hiện là người dưới 18 tuổi, BLHS bổ sung các quy định cụ thể sau:
* Đối với trường hợp các tội phạm được thực hiện khi chủ thể đều dưới trên 16 tuổi (nhưng dưới 18 tuổi)
Nếu hình phạt chung là cải tạo không giam giữ thì mức hình phạt cao nhất không được quá 03 năm;
Nếu hình phạt chung là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất không được quá 18 năm (đối với trường hợp người phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội) và không quá 12 năm (đối với trường hợp người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội);
* Đối với trường hợp các tội phạm được thực hiện khi chủ thể ở hai độ tuổi khác nhau, dưới 16 và trên 16 tuổi (nhưng dưới 18 tuổi)
– Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi người đó đủ 16 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức hình phạt cao nhất để với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi theo quy định tại khoản 1 Điều 103 BLHS;
Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau khi người đó đủ 16 tuổi nặng hơn mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi theo quy định tại khoản 1 Điều 103 BLHS.
* Đối với trường hợp các tội phạm được thực hiện khi chủ thể ở hai độ tuổi khác nhau, đủ 18 và chưa đủ 18 tuổi và U21
– Nếu mức hình phạt
– Nếu mức hình phạt tòa án tuyên đối với tội được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi nặng hơn mức hình phạt áp dụng đối với tội thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội.
Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án (Điều 104 BLHS)
– Vấn đề tổng hợp hình phạt của nhiều bản án được quy định tại Điều 56 của BLHS và nội dung này được đề cập ở chương 14. Tuy nhiên, đối với trường hợp mà người phạm tội là người dưới 18 tuổi, BLHS bổ sung Điều 104 với nội dung: Hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 103 BLHS
Giảm mức hình phạt đã tuyên (Điều 105 BLHS)
Quy định về giảm mức hình phạt đã tuyên được quy định chung tại các điều 63, 64 BLHS.
– Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu cần tạo điều kiện thuận lợi nhất để người dưới 18 tuổi tái hòa nhập BLHS quy định điều kiện xét giảm và mức xét giảm có lợi hơn cho người bị kết án so với quy định chung. Theo đó, người dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu có tiến bộ và đã chấp hành được 1/4 thời hạn thì được tòa án xét giảm; riêng đối với hình phạt tù, mỗi lần có thể giảm đến 04 năm nhưng phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất là 2/5 mức hình phạt đã tuyên. Trong trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
– Trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc lập công lớn thì theo đề nghị của viện trưởng viện kiểm sát, tòa án có thể quyết định giảm hoặc miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại.
Tha tù trước thời hạn có điều kiện (Điều 106 BLHS)
Quy định về tha tù trước thời hạn được quy định chung tại Điều 66 BLHS. Tuy nhiên, xuất phát từ ý nghĩa đặc biệt của chế định này đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, BLHS quy định điều kiện tha tù có lợi hơn cho người bị kết án so với quy định chung. Theo đó, khoản 1 Điều 106 BLHS quy định:
Người dưới 18 tuổi đang chấp hành án phạt tù, nếu không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 66 của Bộ luật này có thể được tha tù trước hạn khi có đủ các điều kiện
+ Phạm tội lần đầu;
+ Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt;
+ Đã chấp hành được 1/3 thời hạn phạt tù;
+ Có nơi cư trú rõ ràng. Các quy định chung khác về tha tù trước thời hạn được áp dụng bình thường đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Xóa án tích (Điều 107 BLHS)
BLHS quy định 03 trường hợp người chưa thành niên bị kết án được coi là không có án tích: thứ nhất, người bị kết án là người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi; thứ hai, người bị kết án là người đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng do vô ý; thứ ba, người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng. Như vậy, đối với 03 trường hợp này án tích không có vấn đề xóa án tích.
Đối với trường hợp còn lại là những trường hợp có án tích thì việc xòa án tích chỉ theo hình thức xóa án tích đương nhiên với thời hạn được quy định tại khoản 2 Điều 107 BLHS.