Hiện nay vẫn còn rất nhiều người chưa nắm rõ được đầy đủ về mức phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Vậy, cụ thể là người 15 tuổi (dưới 16 tuổi) phạm tội giết người có phải bị đi tù hay không?
Mục lục bài viết
1. 15 tuổi (dưới 16 tuổi) giết người có phải đi tù không?
Nhiều người hiện nay đang lầm tưởng rằng, người 15 tuổi (dưới 16 tuổi) khi giết người sẽ không phải đi tù, tức là họ chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên khi phân tích thì có thể nói đây là một quan điểm sai lầm. Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hiện nay đã được pháp luật quy định một cách cụ thể và rõ ràng. Mặc dù đã có sự khoan hồng đối với những đối tượng chưa đủ tuổi vị thành niên, tuy nhiên sự khoan hồng đó chỉ nằm trong khuôn khổ luật định và vẫn phải đảm bảo sự răn đe và giáo dục đối với các chủ thể khác ngoài xã hội. Đặc biệt về tội giết người thì đây được coi là tội đặc biệt nghiêm trọng, vì nó xâm phạm trực tiếp đến tính mạng của người khác – một trong những điều được Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể. Căn cứ theo quy định tại Điều 12 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, cụ thể như sau:
– Người từ đủ 16 tuổi trở lên theo quy định của pháp luật sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm mà mình đã gây ra;
– Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi theo quy định của pháp luật hiện nay sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng xuất phát từ lỗi cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do mình gây ra.
Vì vậy có thể nói, 15 tuổi (tức là những đối tượng thuộc khoản 2 Điều 12, những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi) thì sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về hai loại tội phạm đó là tội phạm rất nghiêm trọng với lỗi cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (cả cố ý và vô ý). Mặt khác, căn cứ theo quy định tại Điều 8 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về vấn đề phân loại tội phạm, cụ thể như sau:
– Loại tội phạm ít nghiêm trọng theo quy định của pháp luật được xác định là loại tội phạm gây ra nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với loại tội phạm ít nghiêm trọng là phạt tù đến 03 năm;
– Tội phạm nghiêm trọng là loại tội phạm theo quy định của pháp luật gây nguy hại lớn cho xã hội, tội phạm nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình phạt là phạt tù đến 07 năm;
– Tội phạm rất nghiêm trọng là loại tội phạm theo quy định của pháp luật gây ra nguy hại rất lớn cho xã hội, tội phạm rất nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình phạt là phạt tù đến 15 năm;
– Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của pháp luật là loại tội phạm gây ra nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình phạt là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Đối chiếu quy định về phân loại tội phạm với tội giết người căn cứ theo quy định tại Điều 123 của Bộ luật hình sự năm 2015, thì tội giết người có các khung hình phạt sau:
Thứ nhất, phạt tù từ 12 năm đến 20 lăm, tù chung thân hoặc tử hình nếu giết người thuộc một trong các tình tiết định không tăng nặng căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 123 của Bộ luật hình sự năm 2015. Đây được xác định là loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Thứ hai, phạt tù từ 07 năm đến 15 năm trong trường hợp giết người thông thường và không có tình tiết định không tăng nặng theo khoản 1 Điều 123 của Bộ luật hình sự năm 2015. Đây được xác định là loại tội phạm rất nghiêm trọng. Như vậy có thể nói, tội giết người tùy thuộc vào từng khung hình phạt khác nhau mà có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng.
Do đó những đối tượng 15 tuổi (dưới 16 tuổi) khi thực hiện hành vi giết người có bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong mọi trường hợp.
2. Mức phạt đối với người 15 tuổi giết người:
Theo phân tích ở trên thì có thể nói, những đối tượng 15 tuổi khi thực hiện hành vi giết người thoải mãn cấu thành tội phạm căn cứ theo quy định tại Điều 123 của Bộ luật hình sự năm 2015 thì hoàn toàn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, xuất phát từ mục đích nhân đạo và đây cũng được xác định là những lứa tuổi chưa đủ tuổi vị thành niên và có những bồng bột trong suy nghĩ, chưa có khả năng suy nghĩ chín chắn và đầy đủ khi thực hiện hành vi phạm tội, vì vậy mặc dù sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng một phần nào đó cũng được hưởng sự khoan hồng. Mức phạt tù đối với những đối tượng này thông thường sẽ thấp hơn so với mức phạt được quy định trong điều luật 123 của Bộ luật hình sự năm 2015. Cụ thể là căn cứ theo quy định tại Điều 101 của Bộ luật hình sự năm 2015 có ghi nhận về mức phạt tù có thời hạn được áp dụng đối với những người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi, cụ thể như sau: Những đối tượng được xác định là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi khi phạm tội theo quy định của pháp luật nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất sẽ được áp dụng đối với những đối tượng này sẽ là không quá 12 năm tù, còn nếu như điều luật quy định mức tù có thời hạn thì mức phạt cao nhất được áp dụng cho các đối tượng này sẽ không quá một phần hai mức phạt tù được quy định trong điều luật tương ứng. Như vậy có thể nói, mức phạt tù đối với những người 15 tuổi phạm tội giết người sẽ được áp dụng như sau:
– Nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình: Cao nhất là 12 năm tù;
– Nếu điều luật được áp dụng quy định mức phạt tù có thời hạn: Cao nhất là 1/2 mức phạt mà điều luật đó quy định.
3. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có thể áp dụng đối với người 15 tuổi giết người:
Căn cứ theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 thì các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có thể áp dụng đối với những người từ đủ 15 tuổi khi phạm tội giết người, cụ thể như sau:
– Người phạm tội tự nguyện sửa chữa sai lầm và bồi thường thiệt hại hoặc thực hiện các hành vi khắc phục hậu quả;
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội hoặc phạm tội trong trạng thái kích động mạnh về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
– Phạm tội vì hoàn cảnh khó khăn đặc biệt mà không phải do lỗi của mình gây ra hoàn cảnh đó;
– Phạm tội nhưng chưa đến mức gây thiệt hại hoặc thiệt hại gây ra không lớn trên thực tế;
– Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo quy định của pháp luật;
– Phạm tội do bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức dưới bất kỳ hình thức nào;
– Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
– Phạm tội do lạc hậu hoặc người phạm tội được xác định là phụ nữ có thai hoặc người cao tuổi với độ tuổi từ đủ 70 tuổi trở lên;
– Người phạm tội được xác định là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định của pháp luật về người khuyết tật;
– Người phạm tội có các chứng bệnh hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình;
– Người phạm tội tự thú hoặc thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải;
– Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc phát hiện tội phạm và giải quyết vụ án một cách thuận lợi, lập công chuộc tội;
– Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong quá trình học tập và chiến đấu;
– Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc cha mẹ hoặc vợ chồng hoặc được xác định là con của liệt sĩ.
Như vậy, tòa án có thể xem xét những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên để có thể áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt cho các bị cáo.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
– Bộ luật Dân sự năm 2015.