Quá trình thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự nói chung và các tội xâm phạm trật tự công cộng nói riêng đều có sự tác động bởi các yếu tố như sau: Pháp lý, Tổ chức nhân sự và các yếu tố khác.
Quá trình thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự nói chung và các tội xâm phạm trật tự công cộng nói riêng đều có sự tác động bởi các yếu tố như sau:
Mục lục bài viết
1. Yếu tố về mặt pháp lý:
Thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các tội xâm phạm trật tự công cộng của Viện kiểm sát nhân dân là hoạt động tố tụng hình sự, phải được tuân theo trình tự, thủ tục tố tụng nghiêm ngặt giữa một bên là tội phạm và người phạm tội với một bên là các cơ quan tiến hành tố tụng được Nhà nước trao quyền xử lý TNHS đối với người phạm tội. Cơ sở pháp lý để áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố là Hiến pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Cơ sở pháp lý càng hoàn thiện thì công tác thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự nói chung và với các tội xâm phạm trật tự công cộng nói riêng của Viện kiểm sát nhân dân càng được bảo đảm.
Về Hiến pháp, Điều 14 Hiến pháp năm 2013, khẳng định:
1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
Đồng thời Điều 31, khoản 1 Hiến pháp cũng nêu rõ:
Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Như vậy, Hiến pháp, đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất khẳng định việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tất cả mọi trường hợp. Mặt khác, việc kết tội phải đúng theo trình tự luật định và chỉ do cơ quan có thẩm quyền thực hiện.
Về Bộ luật Hình sự: Hiện nay Bộ luật Hình sự là văn bản pháp luật duy nhất quy định về tội phạm và hình phạt đối với mọi tội phạm nói chung và các tội xâm phạm trật tự công cộng nói riêng. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra đối với các tội xâm phạm trật tự công cộng. Khi xây dựng pháp luật nói chung hay pháp luật hình sự nói riêng, nhà làm luật luôn cố gắng dự trù các tình huống, mối quan hệ có thể xảy ra trong đời sống xã hội thực tế để đưa ra các quy định pháp luật phù hợp để điều chỉnh những tình huống, mối quan hệ đó. Tuy nhiên, đời sống xã hội luôn biến đổi, diễn ra phức tạp, hành vi phạm tội ngày càng tinh vi, khó phát hiện do đó để đảm bảo công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung và hoạt động thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm trật tự công cộng có hiệu quả pháp luật hình sự ở mỗi giai đoạn phát triển của xã hội phải phù hợp với thực tiễn, mức độ của hành vi phạm tội. Từ năm 1985 đến nay đã 03 lần pháp điển hóa với 03 Bộ luật Hình sự, trải qua 08 lần sửa đổi, bổ sung đã kịp thời đáp ứng được công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm trật tự công cộng nói riêng.
Về Bộ luật Tố tụng hình sự, đây là văn bản quy phạm pháp luật quy định các vấn đề liên quan đến thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân. Bộ luật Tố tụng hình sự quy định một cách toàn diện những vấn đề liên quan đến thủ tục tố tụng giải quyết án hình sự.
Ngoài ra còn có các văn bản hướng dẫn việc áp dụng pháp luật, các quy định tại chương về các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, xâm phạm trật tự xã hội, các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, nhất là các văn bản của các cơ quan tư pháp ở Trung ương như Thông tư liên tịch, nghị quyết của Hội đồng thẩm phán, thông tư liên ngành Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân .... Tuy là văn bản dưới luật nhưng đây chính là hành lang pháp lý để định hướng cho hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, trên cơ sở đó đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật về nội dung đầy đủ giá trị pháp lý.
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Bộ luật Hình sự năm 2015 đã thể hiện sự cải tiến trong kỹ thuật lập pháp, thay thế những điều luật chung chung bằng những quy định cụ thể về trình tự, thủ tục tiến hành giải quyết vụ án hình sự cũng như các dấu hiệu tội phạm một cách khoa học, mang tính khái quát cao, quy định chặt chẽ yếu tố định tội, định khung hình phạt, đảm bảo thống nhất trong áp dụng pháp luật. Sự cải tiến của Bộ luật Tố tụng hình sự và Bộ luật Hình sự 2015 góp phần đảm bảo công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung và hoạt động thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm trật tự công cộng nói riêng có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở mối quan hệ công tác giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc xác định tội danh, áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người thực hiện hành vi phạm tội.
2. Yếu tố về mặt tổ chức, nhân sự:
Yếu tố về mặt tổ chức là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến công tác thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thực tiễn chỉ đạo điều hành đã luôn chú ý xây dựng và hoàn thiện bộ máy, trong đó xác định rõ, cụ thể cơ cấu, chức năng nhiệm vụ của các cục, vụ, việc ... thích ứng với từng giai đoạn lịch sử, phù hợp với Hiến pháp và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân mỗi khi Quốc hội, Nhà nước ban hành mới hoặc sửa đổi bổ sung các văn bản đó. Đặc biệt, để bảo đảm nguyên tắc chỉ đạo tập trung thống nhất toàn ngành của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đồng thời bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy vai trò Ủy ban Kiểm sát theo quy định, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chú ý lựa chọn các thành viên của Ủy ban kiểm sát, bảo đảm các ủy viên có năng lực chuyên môn và bản lĩnh chính trị.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao bảo đảm cho toàn ngành hoạt động thống nhất, phối hợp với các cơ quan tư pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả.
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có vị trí, vai trò quan trọng trong cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được bảo đảm về tổ chức, cơ cấu tổ chức hoàn chỉnh, trong đó có vai trò của lãnh đạo Viện, lãnh đạo các phòng nghiệp vụ cũng như của đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên có năng lực chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất chính trị vững vàng, trong sáng thì sẽ đảm bảo để Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sẽ thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của ngành Kiểm sát trong điều kiện đổi mới và hội nhập hiện nay. Việc kịp thời hoàn thiện tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên có năng lực phẩm chất tốt sẽ phát huy được vai trò quan trọng bảo đảm việc áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra đối với các loại tội phạm, trong đó có các tội phạm trong nhóm các tội xâm phạm trật tự công cộng.
Yếu tố về mặt tổ chức có ảnh hưởng trong công tác thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân đối với các tội xâm phạm trật tự công cộng còn được thể hiện ở mức độ hoàn thiện và đồng bộ về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp khác, đặc biệt là Cơ quan điều tra, Tòa án các cấp cũng như cơ chế phối hợp giữa Viện kiểm sát với các cơ quan này.
Ngoài ra, trong giải quyết án hình sự về các tội xâm phạm trật tự công cộng còn có vai trò tham gia hết sức quan trọng của các cơ quan hỗ trợ tư pháp như hội đồng định giá trong tố tụng hình sự, tổ chức giám định cũng như chất lượng giám định viên, luật sư .... Chất lượng tổ chức của cơ quan này cũng ảnh hưởng đến công tác thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân đối với các tội xâm phạm trật tự công cộng.
Chất lượng thực hành quyền công tố nói chung và thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra vụ án xâm phạm trật tự công cộng của Viện kiểm sát nhân dân là do con người quyết định và phụ thuộc vào khả năng chuyên môn, tinh thần trách nhiệm của những người trực tiếp thực hiện. Đảm bảo về mặt tổ chức là yếu tố quan trọng nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, cụ thể là các chức danh pháp lý có thẩm quyền: Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân các cấp phải là những cán bộ có năng lực chuyên môn tốt, tinh thần trách nhiệm trong công việc.
3. Các yếu tố khác:
– Hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân là hoạt động thực thi quyền lực Nhà nước do đó việc giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân cũng như các tổ chức xã hội và của nhân dân là yếu tố không thể thiếu đối với hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân. Một mặt, nó thể hiện tính công khai, dân chủ, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong đó có Viện kiểm sát. Mặt khác, phát huy được sức mạnh tổng hợp của các cơ quan, đại biểu dân cử và của toàn xã hội đối với công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo mọi hành vi phạm tội xảy ra đều được phát hiện và xử lý công minh, kịp thời, đảm bảo đúng người, đúng tội đúng pháp luật, không để xảy ra oan, sai bỏ lọt người thực hiện hành vi phạm tội. Trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề này, coi đây là giải pháp quan trọng nâng cao chất lượng công tác tư pháp ở nước ta. Nghị quyết 08–NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị khẳng định: Tăng cường sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, của các tổ chức xã hội và của công dân đối với công tác tư pháp. Công tác giám sát của Quốc hội, của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp tập trung vào việc chấp hành pháp luật trong lĩnh vực bắt, tạm giữ, tạm giam, truy tố, xét xử, thi hành án và giám sát của việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực tư pháp....
Thể chế hóa Nghị quyết của Bộ Chính trị, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về giám sát của các cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Đây được coi là một nguyên tắc của hoạt động tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân cũng như các tổ chức xã hội và nhân dân là những hình thức giám sát từ bên ngoài. Về mặt lý luận, đây là những hình thức đem lại hiệu quả lớn, nhưng trên thực tế, những hình thức này còn có hạn chế nhất định, bởi lẽ chất lượng hoạt động của các cơ quan và đại biểu dân cử vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Quốc hội và Hội đồng nhân dân chủ yếu thực hiện quyền giám sát thông qua xem xét các báo cáo của các cơ quan tư pháp, trong đó có Viện kiểm sát tại các kỳ họp của mình; giám sát thông qua chất vấn của các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân tại các kỳ họp của hai cơ quan này đối với người đứng đầu các cơ quan tư pháp.
– Công tác quản lý, chỉ đạo điều hành và công tác thanh tra, kiểm tra trong ngành Kiểm sát nhân dân:
Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo điều hành và công tác thanh tra kiểm tra trong ngành Kiểm sát được coi là yếu tố ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân. Nếu giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các tổ chức xã hội và của nhân dân được coi là hình thức giám sát từ bên ngoài, thì đây được coi là hình thức giám sát từ bên trong. Kết hợp tốt hai hình thức giám sát này sẽ là yếu tố quan trọng đảm bảo tốt việc áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân.
– Cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang thiết bị của Kiểm sát viên:
Đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế và quyền con người trong tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã quy định về việc ghi âm, ghi hình có âm thanh khi tiến hành hỏi cung bị can (khoản 6 Điều 183). Liên ngành các cơ quan tiến hành tố tụng đã ban hành Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT BCA–VKSNDTC–TANDTC–BQP ngày 01/02/2018 để hướng dẫn trình tự, thủ tục ghi âm, ghi hình có âm thanh trong điều tra, truy tố, xét xử, tuy nhiên, việc triển khai ghi âm, ghi hình có âm thanh của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chưa đạt hiệu quả cao và còn nhiều bất cập bởi cơ sở vật chất, kỹ thuật của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chưa đáp ứng được điều kiện tiến hành thủ tục ghi âm, ghi hình có âm thanh và bảo quản các dữ liệu đã thu thập được; cán bộ điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên chưa được đào tạo bài bản về việc ghi âm, ghi hình có âm thanh.
Trang thiết bị cung cấp cho Kiểm sát viên khi tiến hành hoạt động thực hành quyền công tố chưa đầy đủ, phụ thuộc nhiều vào trang thiết bị của Điều tra viên nên việc đề ra yêu cầu xác minh, yêu cầu thu thập tài liệu chứng cứ của Kiểm sát viên khi tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi chưa sát với nội dung vụ án, chưa thể hiện được vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động thực hành quyền công tố.
– Ngoài ra còn có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân. Đó là việc tăng cường và hoàn thiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, Kiểm sát viên; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của ngành Kiểm sát nói chung, hoạt động thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra nói riêng; tăng cường mối quan hệ phối hợp liên ngành trong giải quyết án hình sự.