Từ khi thành lập ngày 22 tháng 12 năm 1946 đến nay, Quân đội ta đã có nhiều tên gọi khác nhau: Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Việt Nam Giải phóng quân, Vệ quốc đoàn, Quân đội Quốc gia Việt Nam và Quân đội Nhân dân Việt Nam. Dù với tên gọi nào, Quân đội nhân dân Việt Nam mãi mãi là quân đội của dân, do dân, vì dân, là sức mạnh nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.
Mục lục bài viết
1. Ý nghĩa của tên gọi Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân:
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là tên gọi đội quân chủ lực của Mặt trận Việt Minh từ tháng 12 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945. Tổ chức quân sự được công nhận là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 22 tháng 12 năm 1944 là ngày thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Sau này, ngày này đã được chọn làm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.
Bối cảnh ra đời: Trước yêu cầu của tình thế chiến đấu cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy đã đến lúc phải xây dựng một lực lượng vũ trang chủ lực với nòng cốt là cán bộ và du kích có trình độ, năng nổ. Bác và Ban Thường vụ Trung ương Đảng cử đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách thành lập lực lượng vũ trang tập trung. “Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân” của Bác Hồ đã xác định rõ ý nghĩa lịch sử, nhiệm vụ của đội quân chủ lực đầu tiên:
Tên gọi: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân có nghĩa là chính trị quan trọng hơn quân sự. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là Đội tuyên truyền. Vì theo nghĩa quân sự, muốn có kết quả thì nguyên tắc cơ bản là phải đoàn kết các lực lượng, sau đó theo chỉ thị mới của đoàn thể, số lượng cán bộ, đoàn viên kiên quyết, hăng hái nhất sẽ được chọn trong hàng ngũ du kích Cao – Bắc – Lạng và bộ phận lớn vũ khí được tập trung để thành lập đội chủ lực.
Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân nên cần huy động lực lượng toàn dân, để trang bị vũ khí cho cả nước, từ đó tập hợp lực lượng thành lập quân đội đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương, hành động và giúp đỡ trong mọi mặt. Tuy nhiên, bộ đội chủ lực có trách nhiệm chỉ đạo các nhóm vũ trang địa phương, giúp huấn luyện, giúp vũ khí nếu có thể, làm cho các đội này trưởng thành mãi lên.
Đối với các đội vũ trang địa phương: Đưa cán bộ địa phương đi huấn luyện, cử các bộ đã được huấn luyện đi các nơi, trao đổi kinh nghiệm, liên lạc thông suốt và phối hợp cùng nhau tác chiến.
Chiến thuật: Sử dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay đông, mai tây, lai vô ảnh, khi vô tung.
Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được gọi là đội đàn anh, sau đó các đội quân khác xuất hiện được gọi là đội đàn em.
Mặc dù ban đầu quy mô của đội còn nhỏ nhưng tương lai của đội lại rất tươi sáng. Đây là nơi xuất phát của quân giải phóng, nó có thể trải dài từ Bắc chí Nam, xuyên suốt lãnh thổ Việt Nam.
2. Ý nghĩa của tên gọi Việt Nam giải phóng quân:
Việt Nam giải phóng quân là tên gọi của Quân đội nhân dân Việt Nam từ tháng 5 đến tháng 11 năm 1945. Việt Nam Giải phóng quân được thành lập ngày 15 tháng 5 năm 1945 tại Định Biên Thượng (Chợ Chu, Thái Nguyên) trên cơ sở sự thống nhất tuyên truyền của Việt Nam Giải phóng quân cùng Cứu quốc quân và các tổ chức quân sự khác theo nghị quyết của Hội nghị quân sự Bắc Kỳ được tổ chức vào tháng 4 năm 1945 tại Hiệp Hòa (Bắc Giang).
Bối cảnh lịch sử: Trong khi khí thế cách mạng sục sôi khắp nước ta thì chiến tranh thế giới thứ hai đã đến những ngày cuối cùng.
Ngày 7/5/1945, Phát xít Đức – I-ta-li-a đầu hàng đồng minh. Ngày 8-8-1945, Hồng quân Liên Xô đánh bại lực lượng chủ lực của phát xít Nhật là đạo quân Quan Đông; Sự sụp đổ hoàn toàn của phát xít Nhật chỉ còn vài giờ nữa.
Hội nghị toàn quốc của Đảng cộng sản Việt Nam họp từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 8 năm 1945 tại Tân Trào trong không khí hết sức khẩn trương. Tại hội nghị, trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, đã quyết định tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Theo lệnh tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng, lời kêu gọi của Tổng bộ Việt Minh và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả nước nhất tề đứng lên. 14 giờ ngày 16 tháng 8 năm 1945, lực lượng chủ lực của Việt Nam Giải phóng quân rời Tân Trào tiến đánh thị xã Thái Nguyên. Vào thời điểm đó, mục tiêu của Quân giải phóng không còn là các đồn và tỉnh lỵ, mà là các cứ điểm, thị trấn, thị xã. Bác Hồ căn dặn: “Bây giờ là thời cơ, dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Ngày 21/8/1945, Nhật đầu hàng. Tuyên Quang được giải phóng. Thắng lợi của cuộc tiến công vào các tỉnh ở vùng đất Thái Nguyên là một thắng lợi của Quân giải phóng đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chính trị cả quân sự, chính trị và binh vận để tiến công địch.
Cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám đã nổ ra trong cả nước chỉ trong 12 ngày (14-25/8/1945). Chính quyền cách mạng nhân dân được thành lập từ trung ương đến tận các làng xã. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, tuyên bố sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
3. Ý nghĩa của tên gọi Vệ Quốc Đoàn:
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới thành lập đã rơi vào tình thế hiểm nghèo, có thù trong, giặc ngoài. Ở phía bắc, quân của Tưởng Giới Thạch đến giải giáp quân Nhật. Ở phía Nam thì thực dân Anh mở đường cho thực dân Pháp, biến Việt Nam trở lại thời thuộc địa. Khi đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và đảng ta đã thực hiện sách lược mềm dẻo “dĩ bất biến, ứng vạn biến” để giữ vững nền độc lập của non sông. Dưới áp lực của quân đội Tưởng Giới Thạch, ta linh hoạt đưa đảng vào hoạt động bí mật, đảng tuyên bố “tự giải tán”. Đáp lại yêu cầu giải tán quân đội chính quy của quân đội Tưởng, Quân Giải phóng Việt Nam đổi tên thành Vệ quốc đoàn (còn gọi là Vệ quốc quân) vào tháng 11 năm 1945. Quân đội ta khi đó có quân số khoảng 50.000 người và được tổ chức thành khoảng 40 chi đội ở hầu hết các tỉnh miền Bắc và miền Trung. Một số chi “Nam tiến” giúp quân dân Nam Bộ chống thực dân Pháp đang xâm lược và tái xâm lược miền Nam.
4. Ý nghĩa của tên gọi Quân đội Quốc gia Việt Nam:
Ngày 22 tháng 5 năm 1946, Vệ quốc đoàn đổi tên thành Quân đội quốc gia Việt Nam theo Sắc lệnh 71/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đặt dưới sự chỉ huy tập trung thống nhất của Bộ tổng tham mưu. Quân đội ta vào thời điểm đó tổ chức biên chế thống nhất gồm trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội… Bên cạnh việc xây dựng quân đội toàn quốc, Nhà nước ta đặc biệt coi trọng việc xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng và bán vũ trang, gồm: dân quân tự vệ ở nông thôn và tự vệ ở đô thị.
Trong những năm 1945-1950, có những binh lính trong quân đội thực dân, đế quốc sang xâm lược Việt Nam, trước sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và cuộc chiến tranh chính nghĩa của quân và dân ta, đã tình nguyện gia nhập quân đội ta cùng tham gia chiến đấu và công tác trên nhiều lĩnh vực như chỉ huy, tham mưu, kế hoạch, huấn luyện, quân giới, quân y, tuyên huấn… Nhiều người được giao nhiệm vụ quan trọng và được phong quân hàm sĩ quan. Họ đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam trong những ngày đầu mới hình thành lực lượng.
5. Ý nghĩa của tên gọi Quân đội nhân dân Việt Nam:
Từ năm 1950, Quân đội Quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Quân đội nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt tên là Quân đội nhân dân, nghĩa là “của dân, vì dân mà chiến đấu, vì dân phục vụ”. Đồng thời, các đại đoàn cơ bản quan trọng (tương đương sư đoàn) được thành lập như đại đoàn 308, 304, 312, 320, 316, 325, 351 là những đơn vị chủ lực của quân đội ta cho đến ngày nay.
Từ một đội quân vỏn vẹn vài trăm người tham gia vào cuộc tổng khởi nghĩa, quân đội nhân dân Việt Nam đã phát triển thành một đội quân chủ lực mạnh, lập nên những chiến công hiển hách, mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7-5-1945 đã đập tan âm mưu khôi phục thuộc địa của thực dân Pháp.
Danh xưng Quân Đội Nhân Dân Việt Nam từ đó được cả nước biết đến. Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết năm 1954, Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền. Nhân dân Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất Tổ quốc. Nhiệm vụ của quân đội trong thời kỳ này vừa là thiết lập trật tự, vừa là bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tham gia đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 15 tháng 2 năm 1961, Giải phóng quân miền Nam Việt Nam được thành lập, là lực lượng quân sự của Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam, kết hợp lực lượng vũ trang địa phương và các lực lượng viện trợ từ miền Bắc. Trước sự can thiệp tức thì của quân Mỹ, quân đội nhân dân Việt Nam đã sát cánh cùng nhân dân và các lực lượng vũ trang khác, tiến hành cuộc kháng chiến chiến toàn diện, lâu dài và gian khổ vì tất cả mọi người. Tiêu biểu là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân năm 1968 chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của không quân và hải quân của đế quốc Mỹ ở miền Bắc mà đỉnh cao là chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” tháng 12-1972; kết thúc thắng lợi bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử ngày 30-04-1975, thống nhất đất nước, mở ra thời kỳ phát triển mới của đất nước.
Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam do đó là tên gọi mới, nhưng là một bộ phận cấu thành của Quân đội nhân dân Việt Nam. Sự thật lịch sử chứng tỏ, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã hoàn thành vai trò, sứ mệnh lịch sử vẻ vang về mọi mặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng. Sau năm 1975, đất nước thống nhất, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam hợp nhất với Quân đội nhân dân Việt Nam để thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Quân đội Nhân dân Việt Nam hiện nay là lực lượng thường trực bao gồm bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, với tổng quân số khoảng 450.000 người và dự trữ khoảng 5 triệu người. Bộ đội chủ lực là thành phần chủ yếu của Quân đội nhân dân Việt Nam, bao gồm lực lượng cơ động, các quân chủng, binh chủng, bộ đội chủ lực quân khu, đặc công kỹ thuật. Ngoài nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, các đơn vị còn có hệ thống các đơn vị dự bị hậu cần, kỹ thuật đồng bộ; các học viện, viện nghiên cứu, trường sĩ quan, trường kỹ thuật các cấp.