Hành vi vi phạm hành chính của cá nhân tổ chức nếu bị phát hiện sẽ bị cá nhân, tổ chức có thẩm quyền lập biên bản, ban hành quyết định xử phạt. Vậy trong trường hợp, lập biên bản vi phạm hành chính sai thẩm quyền thì xử lý thế nào?
Mục lục bài viết
1. Thẩm quyền xử phạt, thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính:
Thẩm quyền xử phạt thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính: Liên quan đến việc xác định thẩm quyền xử phạt thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính thì bạn đọc cần theo dõi các nội dung đã được ghi nhận tại Điều 6 của Nghị định 118/2021NĐ-CP, cụ thể như sau:
Thẩm quyền xử phạt thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính: Liên quan đến việc xác định thẩm quyền xử phạt thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính thì bạn đọc cần theo dõi các nội dung đã được ghi nhận tại Điều 6 của Nghị định 118/2021/NĐ-CP, cụ thể như sau:
– Thẩm quyền phạt tiền của mỗi chức danh phải căn cứ vào quy định cụ thể mà Nghị định này đã thừa nhận về lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính. Xét đến trường hợp tồn tại nhiều lĩnh vực khác nhau trong quản lý nhà nước thì trong mỗi lĩnh vực cũng sẽ có thẩm quyền xử lý phù hợp;
Các chức danh được quy định tại Điều 38, Điều 39, Điều 40, Điều 41 và Điều 46 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính sẽ được tính theo tỷ lệ phần trăm mức phạt tiền tối đa của lĩnh vực tương ứng. Mà tỷ lệ này được quy định rõ ràng trong nội dung của khoản 1 Điều 24 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi 2020 nên thẩm quyền phạt tiền phải được tính thành mức tiền cụ thể để quy định trong nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước.
– Xét đến trường hợp có hành vi vi phạm hành chính mà mức phạt được xác định theo số lần, giá trị tang vật vi phạm, hàng hóa vi phạm mà những hành vi này thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước quy định tại khoản 3 Điều 24 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì thẩm quyền xử phạt của các chức danh quy định tại Điều 38, Điều 39, Điều 40, Điều 41 và Điều 46 Luật Xử lý vi phạm hành chính sẽ được xác định theo tỷ lệ phần trăm mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực đó và đồng thời phải được tính thành mức tiền cụ thể được quy định trong nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước.
– Khi có hành vi vi phạm mà trong nội dung của nghị định có quy định về xử phạt vi phạm hành chính, có quy định nhiều chức danh của các lực lượng có thẩm quyền xử phạt thuộc nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước khác nhau tham gia xử phạt, thì từng điều khoản cụ thể cần quy định rõ thẩm quyền xử phạt của các lực lượng đó;
– Cá nhân được pháp luật trao thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính gồm người có thẩm quyền xử phạt, cá nhân đang lag công chức, viên chức và người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu đang thi hành công vụ, nhiệm vụ; Trong một số trường hợp đặc biệt thì người chỉ huy tàu bay, thuyền trưởng, trưởng tàu và những người được chỉ huy tàu bay, thuyền trưởng, trưởng tàu giao nhiệm vụ lập biên bản;
Lưu ý rằng: Các chức danh có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính được quy định cụ thể tại các nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước.
– Xét đến trường hợp, cá nhân có hành vi vi phạm hành chính vừa bị áp dụng hình thức xử phạt chính là phạt tiền, vừa bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là trục xuất, thì nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước phải quy định thẩm quyền xử phạt đối với hành vi đó cho chức danh có thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt trục xuất theo quy định tại điểm đ khoản 5 và khoản 7 Điều 39 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
2. Xử lý khi lập biên bản vi phạm hành chính sai thẩm quyền:
Hiện nay liên quan đến việc xử lý khi lập biên bản vi phạm hành chính sai thẩm quyền vẫn chưa có bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào quy định một cách cụ thể để thống nhất hướng giải quyết. Thông thường Bộ tư pháp ở một số tỉnh thành khác nhau cũng sẽ đưa ra công văn để giải đáp một số vấn đề khó khăn trong quá trình xử lý vi phạm hành chính nhưng chỉ mang tính khu vực, tỉnh thành nhất định. Sở dĩ chưa có sự đồng nhất về vấn đề xử lý vi phạm hành chính bởi căn cứ theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 sửa đổi năm 2020 ghi nhận một trong những nguyên tắc quan trọng trong quá trình xử lý vi phạm hành chính đó là “một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần”. Với quy định trên, mặc dù nhận thấy có sự sai phạm về thẩm quyền lập biên bản vẫn chưa có một hướng dẫn cụ thể liên quan đến việc sẽ hủy bỏ biên bản này để lập một biên bản mới vì nó sẽ vi phạm nghiêm trọng đến nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính đã được quy định.
Soi chiếu đến Điều 59 của Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi 2020 quy định, khi xem xét ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, trong trường hợp cần thiết cá nhân, cơ quan có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm sẽ xác minh lại các tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính. Chính vì vậy, những vụ việc đã được lập biên bản vi phạm hành chính nếu phát hiện ra những sai sót trong thẩm quyền thì có thể tiến hành lập biên bản xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính theo quy định tại Khoản 2 Điều 59 của luật xử lý vi phạm hành chính. Mục đích chính của việc này là sửa đổi, bổ sung những nội dung có sai sót trong biên bản vi phạm hành chính đã được lập.
Đương nhiên trong quá trình lập biên bản xác minh này cũng phải đảm bảo theo đúng trình tự thủ tục quy định tại Điều 58 của Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi năm 2020. Phải đảm bảo đầy đủ chữ ký của những người có liên quan như cá nhân hoặc đại diện tổ chức vi phạm; có sự tham gia của người chứng kiến hoặc người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại nếu có; Quan trọng nhất đó là các tài liệu gắn liền với biên bản vi phạm hành chính người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt; đồng thời sau khi thực hiện việc đính chính sửa đổi những sai sót thì phải lưu hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính.
Pháp luật không có quy định cụ thể liên quan đến xử lý biên bản lập sai thẩm quyền nhưng có quy định đến các nội dung liên quan đến việc hủy bỏ ban hành quyết định mới trong xử phạt vi phạm hành chính. Căn cứ theo Điều 13 Nghị định 118/2021/NĐCP thì nội dung liên quan đến việc hủy bỏ ban hành quyết định mới trong hành vi vi phạm hành chính được thể hiện với các nội dung sau:
– Cá nhân khi tiến hành việc ban hành quyết định có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của những người được quy định tại khoản 3 của Điều 18 Luật Xử lý vi phạm hành chính ban hành quyết định hủy bỏ toàn bộ nội dung quyết định nếu có các trường hợp như:
+ Nhận thấy có hành vi vi phạm về thẩm quyền ban hành quyết định;
+ Khi xử lý vi phạm hành chính nhưng lại không đúng đối tượng vi phạm;
+ Một số trường hợp vi phạm quy định về thủ tục ban hành quyết định đã được quy định tại khoản 1 khoản 6 khoản 10 của Điều 12 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi 2020 và khoản 3 Điều 62 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi 2020 ;
+ Trong trường hợp quy định tại điểm a b c d và e của khoảng 1 Điều 18 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi 2020 thì nếu có căn cứ để ban hành một quyết định mới thì người ban hành quyết định phải ban hành quyết định mới hoặc tuyển người có thẩm quyền ban hành quyết định mới;
+ Đối với trường hợp không ra quyết định xử phạt quy định tại khoản 1 Điều 65 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi 2020 nếu có tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, thuộc loại cấm tàng trữ, cấm lưu hành hoặc pháp luật có đưa ra quy định cụ thể áp dụng hình thức xử phạt tịch thu hoặc biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm hành chính thì người có thẩm quyền đã ban hành quyết định phải ban hành quyết định mới hoặc chuyển người có thẩm quyền ban hành quyết định mới để tịch thu áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp này.
Như vậy, về hướng xử lý khi lập biên bản vi phạm hành chính sai thẩm quyền hiện nay vẫn chưa có một văn bản hướng dẫn thống nhất, thông thường sẽ xử lý bằng cách lập biên bản xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính sau đó đính chính sửa đổi thông tin nội bộ theo đúng trình tự thủ tục. Với trường hợp quyết định đã được ban hành nhưng nằm trong trường hợp phải hủy bỏ hoặc ban hành quyết định mới thì phải thực hiện theo đúng quy định đã được ghi nhận tại điều 13 của Nghị định 118/2021/NĐ-CP.
3. Thời hạn thực hiện và nội dung đính chính sửa đổi bổ sung hủy bỏ một phần nộp toàn bộ quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính:
Liên quan đến các nội dung về thời hạn thực hiện và nội dung đính chính sửa đổi bổ sung hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quy định trong xử phạt vi phạm hành chính thì đã được quy định đầy đủ trong Điều 15 của Nghị định 118/2021/NĐ-CP, theo đó:
– Thời hạn đính chính, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định:
+ Theo quy định thì thời hạn đính chính, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ một phần quyết định là 01 năm, mốc thời gian này sẽ tính kể từ ngày người có thẩm quyền ban hành quyết định có sai sót. Trường hợp hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính quy định tại điểm a khoản 1 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính, thì không cần tiếp tục thực hiện việc đính chính, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ một phần quyết định;
+ Trong trường hợp hủy bỏ toàn bộ quyết định đã được ban hành từ ngày Luật Xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực thi hành mà thuộc trường hợp quy định tại hoản 1 Điều 13 Nghị định này thì sẽ không áp dụng thời hạn;
– Không áp dụng thời hạn đính chính, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ một phần quyết định quy định tại điểm a khoản 1 Điều này đối với các trường hợp sau đây:
+ Nếu quyết định xử phạt được ban hành ghi nhận việc áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 1 Điều 74 Luật Xử lý vi phạm hành chính;
+ Người hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đã ban hành quyết định giải quyết khiếu nại về việc phải sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ một phần quyết định;
+ Người hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo sau khi giải quyết đơn tố cáo và có kết luận nội dung tố cáoề việc phải sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ một phần quyết định;
+ Trường hợp nhận được bản án, quyết định của Tòa án về việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ một phần quyết định bị khởi kiện.
– Đối với trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 13 Nghị định này, nếu có căn cứ ban hành quyết định mới, thì người có thẩm quyền phải lập biên bản xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 59 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Thời hạn ban hành quyết định mới theo quy định tại khoản 1 Điều 66 Luật Xử lý vi phạm hành chính, kể từ ngày lập biên bản xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính.
Văn bản pháp luật được sử dụng:
– Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi 2020;
– Nghị định số 118/2021/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính.