Xử lý hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng thuê nhà. Hậu quả pháp lý giao dịch dân sự vô hiệu khi có sự lừa dối.
Xử lý hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng thuê nhà. Hậu quả pháp lý giao dịch dân sự vô hiệu khi có sự lừa dối.
Tóm tắt câu hỏi:
Chào Luật sư! Gia đình em có thuê một căn nhà từ táng 3 năm 2015 để đặt làm văn phòng làm việc. Và có làm hợp đồng với chủ nhà với thời gian là 5 năm và trả tiền 2 năm một lần. Trong thời gian bắt đầu làm hợp đồng với chủ nhà gia đình có yêu cầu chủ nhà cho xem sổ bìa đỏ thì bà chủ nhà nói là sổ bìa đỏ nhà đang cắm trong ngân hàng để vay ngân hàng lấy vốn làm ăn và hứa là hứa tháng sau sẽ trả ngân hàng và lấy sổ bìa đỏ đưa cho. Do là chỗ quen biết nên gia đình em cũng tin tưởng và giao tiền thuê nhà cho chủ nhà là 2 năm tiền mặt là 168 triệu đồng chẵn giá thuê nhà là 7.000.000 đồng trên tháng. Và sau khi gia đình em đã dọn đến và làm việc tại căn nhà đó được 1 năm, lợi dụng lúc gia đình em đi công tác ở miền Nam. Bà chủ nhà cho người đến phá cửa đột nhập vào nhà, khi gia đình em phát hiện và có báo với công an phường để giải quyết và khi đó thì bà chủ nhà tuyên bố là nhà mà gia đình em đang thuê là nhà của con gái và con rể của bà ta đứng tên trong sổ bìa đỏ không phải bà chủ ký hợp đồng cho thuê trực tiếp với gia đình em. Sau khi xem xét thì đúng là sổ bìa đỏ căn nhà em đang thuê là nhà của con rể và con gái bà ta đứng tên trong sổ bìa đỏ. Công an phường đã giải quyết là bàn giao nhà cho người đứng tên trong sổ bìa đỏ và đuổi gia đình em ra khỏi nhà.trong khi đó mọi đồ đạc, trang thiết bị gia đình em lắp đặt trong nhà họ cũng giữ và không trả. Mong Luật sư tư vấn!
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý:
Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009
2. Nội dung tư vấn:
Thứ nhất, về việc ký kết hợp đồng thuê nhà:
Theo thông tin bạn cung cấp, khi giao kết hợp đồng thuê nhà với bạn, bên cho thuê không cung cấp đầy đủ thông tin về ngôi nhà cho thuê, sau này có phát hiện ra đây không phải là tài sản của người này mà là tài sản của con gái và con rể. Căn cứ Điều 132 Bộ luật dân sự 2005 quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa như sau:
"Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình.”
Giao dịch thuê nhà giữa bạn và người chủ nhà bị tuyên là vô hiệu do bị lừa dối, hai bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, bạn trả lại nhà, bên cho thuê trả lại tiền và các tài sản trong ngôi nhà cho bạn.
Người cho thuê có hành vi đưa ra thông tin không đúng về ngôi nhà cho thuê, khi ký kết hợp đồng, người này đã có hành vi lừa dối để bạn ký kết hợp đồng thuê nhà, nếu có mục đích nhằm chiếm đoạt số tiền thuê nhà của bạn thì người này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 như sau:
"1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
>>> Luật sư tư vấn pháp luật dân sự qua tổng đài: 1900.6568
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”
Thứ hai, đối với hành vi tự ý phá cửa đột nhập vào nhà và giữ đồ đạc trong lúc gia đình bạn đi vắng: Theo quy định, thì khi giao dịch dân sự chưa bị tuyên bố vô hiệu, thì các bên vẫn phải có trách nhiệm thực hiện hợp đồng. Bên bạn là người thuê nhà, vẫn có quyền sử dụng đối với ngôi nhà đó, việc bên chủ nhà tự ý đột nhập, chiếm giữ tài sản và không trả lại là trái quy định pháp luật. Với hành vi này có thể sẽ bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, để đảm bảo quyền lợi cho bạn, trước tiên bạn làm đơn khởi kiện tới Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người cho thuê đang cư trú để yêu cầu Tòa án giải quyết việc tuyên hợp đồng cho thuê là vô hiệu, đồng thời bạn làm đơn tố cáo gửi tới cơ quan công an cấp huyện nơi người cho thuê cứ trú tố cáo về hành vi lừa đảo chiểm đoạt tài sản.