Trong lĩnh vực thuế, chúng ta thường nghe đến những thuật ngữ như xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận. Những hành vi này thường là của các công ty đa quốc gia nhằm chuyển dịch lợi nhuận từ nơi có thuế suất cao đến nơi có thuế suất thấp.
Mục lục bài viết
1. Xói mòn cơ sở thuế là gì?
– Xói mòn cơ sở thuế đề cập đến các chiến lược lập kế hoạch thuế được sử dụng bởi các công ty đa quốc gia để chuyển lợi nhuận từ các khu vực pháp lí thuế cao hơn sang các khu vực pháp lí thuế thấp hơn, do đó làm xói mòn cơ sở thuế thuế cao hơn.
– Sự xuất hiện của xói mòn cơ sở thuế:
+ Cùng với sự mở rộng thương mại đầu tư toàn cầu và sự phát triển của công nghệ thông tin, các hoạt động đầu tư kinh doanh ngày càng trở nên phức tạp, trong nhiều trường hợp đã vượt ra khỏi phạm vi các qui định quản lí hiện hành.
+ Các doanh nghiệp, đặc biệt là các tập đoàn đa quốc gia, đã tận dụng các kẽ hở quản lí để tránh các nghĩa vụ thuế thông qua những hành vi gây xói mòn cơ sở tính thuế hoặc chuyển dịch lợi nhuận từ nơi có thuế suất cao sang nơi có thuế suất thấp.
Như vậy, ta có thể hiểu xói mòn cơ sở thuế được xem như một hành vi trốn thuế của người cần phải nộp thuế cho nhà nước (theo như nhận định của các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính).
Xói mòn cơ sở thuế được biếu hiện thông qua một số hành vi cụ thể như là: vốn mỏng, thương mại điện tử, thiên đường thuế…
2. Nguyên nhân của hành vi xói mòn cơ sở thuế:
– Tình trạng xói mòn cơ sở thuế đang diễn ra ngày một phổ biến hơn và khó kiểm soát hơn nguyên nhân là do:
+ Một số tập đoàn hoạt động xuyên, đa quốc gia có những giao dịch thương mại nội bộ chiếm khoảng trên 30% tổng giá trị thương mại của toàn cầu.
Điều này gây ra sự khó kiểm soát cũng như dẫn đến hệ lụy các tập đoàn này có thể trốn, tránh thuế một cách dễ dàng.
+ Bên cạnh đó, nguyên nhân khách quan là do ở một số quốc gia có đánh thuế thu nhập đối với doanh nghiệp ở mức khá cao
Nguyên nhân trên cũng khiến nhiều doanh nghiệp tìm cách trốn, tránh thuế để đảm bảo lợi nhuận ở mức cao nhất cho chính mình.
3. Hậu quả của hiện trạng xói mòn cơ sở thuế:
– Hậu quả mà tình trạng xói mòn cơ sở thuế gây ra là rất đáng quan ngại đối với nền kinh tế Việt Nam nói riêng và nền kinh tế trên toàn cầu nói chung.
Cụ thể như sau:
+ Ngân sách nhà nước bị thất thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp ước tính rơi vào khoảng từ 4% đến 10% trên tổng số thuế cần thu về ngân sách từ thuế thu nhập doanh nghiệp, con số trên tương ứng với thiệt hại từ thuế thu nhập doanh nghiệp là khoảng từ 100 – 240 tỷ USD mỗi năm.
+ Xói mòn cơ sở thuế còn gây nên hiện tượng hệ thống thuế bị giảm bớt đi sự minh bạch.
Điều này dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh, mất đi sự bình đẳng về thuế giữa các quốc gia và ý thức tuân thủ pháp luật về thuế của người cần nộp thuế sẽ bị suy giảm.
+ Ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế toàn cầu và đặc biệt là các nước đang phát triển. Khi mà nguồn thu chủ yếu cuả ngân sách nhà nước chính là thuế thu nhập doanh nghiệp (trong đó có Việt Nam, là một trong những nước thuộc nhóm nước đang phát triển)
– Xói mòn cơ sở thuế trong tiếng anh là Base erosion and profit shifting
– Định nghĩa về xói mòn cơ sở thuế trong tiếng anh được hiểu như sau:
Tax base erosion refers to tax planning strategies used by multinationals to shift profits from higher tax jurisdictions to lower tax jurisdictions, thus undermine the higher tax base.
– Một số những thuật ngữ tiếng anh tiêu biểu trong cùng lĩnh vực như:
- Company income tax: thuế thu nhập doanh nghiệp
- Environment fee: phí bảo vệ mội trường
- Environment tax: thuế bảo vệ môi trường
- Excess profits tax: thuế siêu lợi nhuận
- Export tax: thuế xuất khẩu
- Export/Import tax: thuế xuất, nhập khẩu
- Import tax: thuế nhập khẩu
- Indirect tax: thuế gián thu
- Land & housing tax, land rental charges: thuế nhà đất, tiền thuê đất
- License tax: thuế môn bài
- Natural resource tax: thuế tài nguyên.
- Natural resources tax: thuế tài nguyên
- Personal income tax: thuế thu nhập cá nhân
- Registration tax: thuế trước bạ
- Special consumption tax: thuế tiêu thụ đặc biệt
4. Chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận:
Thứ nhất, những kẽ hở chính sách thuế trong nước thường được các doanh nghiệp lợi dụng để tránh thuế
(1) Các chính sách về vốn chủ sở hữu và chi phí lãi vay
– Theo qui định, tiền lãi trả cho khoản vốn vay được tính vào chi phí khấu trừ thuế, vì vậy các doanh nghiệp có vốn mỏng sẽ có phần chi phí trả lãi vay được khấu trừ thuế rất lớn.
– Việc tạo ra tình trạng vốn mỏng có thể thông qua các khoản vay nội bộ giữa công ty mẹ và công ty con, theo đó công ty mẹ cho công ty con hoạt động ở nước ngoài vay những khoản vay lớn với lãi suất cao trên sổ sách để tạo ra chi phí trả lãi vay lớn; công ty mẹ đưa nguyên vật liệu, vật tư linh kiện đầu vào mà ở quốc gia đó chưa sản xuất được hoặc chất lượng chưa đảm bảo, công ty ở quốc gia này báo cáo không có tiền lấy hàng, công ty mẹ cho trả chậm, thời gian trả chậm đó phải có lãi.
– Những khoản này được doanh nghiệp coi là trả lãi vay, nên khi doanh nghiệp bán hàng ra có lãi đều tính vào chi phí trả lãi vay, do đó lợi nhuận sẽ giảm. Phần lợi nhuận thực thông qua trả lãi vay đã chuyển ra nước ngoài cho công ty mẹ.
(2) Quản lí thương mại điện tử
– Các nguyên tắc quốc tế về thuế đã được phát triển từ các hoạt động kinh doanh truyền thống dựa vào các tài sản cố định. Tuy nhiên đối với nền kinh tế kĩ thuật số thì có sự khác biệt khá lớn.
– Phần lớn các hoạt động thương mại dựa vào hệ thống điện tử, các thành phần ảo với cơ cấu kinh doanh phức tạp. Điều này ảnh hưởng đến thuế trực thu (thuế thu nhập) và thuế gián thu (thuế giá trị gia tăng hoặc tiêu dùng).
(3) Tránh hình thành cơ sở thường trú
– Một doanh nghiệp nước ngoài có thể hoạt động và kiếm lợi nhuận ở một nước bằng cách thực hiện trực tiếp các hoạt động thông qua một chi nhánh theo tên riêng của mình chứ không phải là hoạt động thông qua một công ty con.
– Trong những trường hợp này thì vấn đề đặt ra là nước diễn ra các hoạt động đó có đánh thuế được doanh nghiệp hay không lại phụ thuộc vào doanh nghiệp có một cơ sở thường trú hay không.
– Theo các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, thuật ngữ “cơ sở thường trú” (PE) có nghĩa là một cơ sở kinh doanh cố định mà qua đó doanh nghiệp (nước ngoài) thực hiện toàn bộ hay một phần hoạt động kinh doanh của mình tại nước sở tại.
– Việc xác định cơ sở thường trú căn cứ vào một số điều kiện (có tồn tại một cơ sở kinh doanh hay cơ sở kinh doanh có tính chất cố định; việc tiến hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua cơ sở kinh doanh cố định này). Thực tế là một số công ty đa quốc gia sẽ tránh việc thiết lập một PE để khỏi bị đánh thuế.
Thứ hai, những giải pháp tổng thể chống xói mòn cơ sở thuế
Theo Bộ Tài chính Việt Nam, đến nay, BEPS là một vấn đề mang tính toàn cầu đòi hỏi phải có một giải pháp mang tính tổng thể trên cơ sở hợp tác đa phương, trong khi khả năng ngăn chặn BEPS bằng các biện pháp đơn phương và song phương như hiện nay không khả thi, do số lượng các công ty đa quốc gia ngày càng tăng, quy mô lớn và giao dịch phức tạp.
Điều này cũng được nhiều nền kinh tế thành viên APEC quan tâm và được các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) và WB hỗ trợ mạnh mẽ, nhất là lỗ hổng trong chính sách và cách thức quản lý mà các tổ chức xuyên quốc gia tận dụng để áp dụng chính sách thuế với mỗi nền kinh tế.
Từ bối cảnh trên, để chủ động ngăn chặn xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận, Việt Nam đã có các biện pháp tương đối mạnh để làm chủ, xử lý việc lạm dụng hiệp định thuế của Việt Nam với các nước.
Theo Bộ trưởng Tài chính Việt Nam Đinh Tiến Dũng thì Việt Nam sẽ phối hợp với các nền kinh tế APEC trong việc thực hiện BEPS và phải theo các tiêu chuẩn, các chuẩn mực của OECD để cùng triển khai.
Một là, quản lý thông qua chính sách pháp luật
– Trước hết Việt Nam đã có được văn bản pháp quy rất quan trọng là nghị định của Chính phủ về chống chuyển giá và hiện đang triển khai quyết liệt việc này nhằm mục đích tăng thu cho ngân sách, đồng thời, đảm bảo kinh doanh công bằng giữa các thành phần kinh tế trong nước cũng như thành phần kinh tế nước ngoài đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
Đối với ngành thuế, việc triển khai chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận cũng giúp ngành thích ứng kịp thời với những tác động của quá trình hội nhập trên cơ sở đề xuất một số giải pháp về chính sách và quản lý thuế cũng như tăng cường hợp tác hành chính thuế quốc tế với các cơ quan thuế các nước nhằm ngăn chặn hiệu quả các hành vi trốn, tránh thuế của người nộp thuế thông qua hành vi chuyển giá, rủi ro thất thu thuế từ các giao dịch qua biên giới.
Hai là, thực hiện tối thiểu 4 hành động trong gói giải pháp tổng thể gồm 15 hành động nhằm ngăn chặn BEPS (với thời gian và lộ trình tùy thuộc vào điều kiện yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế của Việt Nam).
– Trong lĩnh vực thương mại điện tử: Bộ Tài chính sẽ soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn chung trên cơ sở tham khảo thông lệ các nước về phương thức quản lý, chính sách áp dụng, đặc biệt là đối với các giao dịch kinh doanh qua biên giới; Mức thuế áp dụng đối với các sản phẩm, dịch vụ điện tử; xem xét, nghiên cứu áp dụng các quy định về điều kiện tạo thành cơ sở thường trú trong lĩnh vực thương mại điện tử theo thông lệ quốc tế.
– Trong lĩnh vực hiệp định thuế: Xem xét, sửa đổi và bổ sung các quy định để chống lợi dụng/tránh thuế theo Hiệp định; Nghiên cứu, áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp theo thỏa thuận song phương; Đề xuất ký kết đàm phán Hiệp định đa phương về thuế; Báo cáo Chính phủ tham gia Hiệp định đa phương về thuế quốc tế và tham gia các Diễn đàn đa phương về quản lý thuế và trao đổi thông tin.
– Trong lĩnh vực giá chuyển nhượng: Ngày 20/02/2017, Chính phủ ban hành Nghị định số 20/2017/NĐ-CP quy định về quản lý thuế đối với DN có giao dịch liên kết; ngày 28/4/2017, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 41/2017/TT-BTC hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 20/2017/NĐ-CP.
Việc kịp thời ban hành các văn bản này giúp cơ quan quản lý thuế có công cụ quản lý “mạnh mẽ hơn và linh hoạt hơn” để nâng cao hiệu quả quản lý thuế đối với các DN có giao dịch liên kết.
– Trong lĩnh vực thuế TNDN: Rà soát lại các quy định về ưu đãi miễn giảm, xem xét, bổ sung quy định về tỷ lệ lãi vay trên vốn chủ sở hữu được tính vào chi phí được trừ khi tính thuế TNDN và đưa vào chương trình đề xuất sửa đổi Luật Thuế TNDN vào thời điểm thích hợp.
Ba là, tham gia triển khai BEPS
Việc tham gia triển khai BEPS được nhận định sẽ góp phần tăng cường hội nhập quốc tế của Việt Nam nói chung, của ngành Thuế nói riêng, cải cách hệ thống thuế theo hướng phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
Đồng thời, giúp ngành Thuế thích ứng kịp thời với những tác động của quá trình hội nhập trên cơ sở đề xuất một số giải pháp về chính sách và quản lý thuế cũng như tăng cường hợp tác hành chính thuế quốc tế với cơ quan thuế các nước nhằm ngăn chặn hiệu quả các hành vi trốn, tránh thuế của người nộp thuế thông qua vi chuyển giá, rủi ro thất thu thuế từ các giao dịch qua biên giới. Theo đó, trong thời gian tới, cần chú trọng một số vấn đề sau:
– Tiếp tục nâng cao nhận thức cho các cơ quan quản lý, cộng đồng DN về những rủi ro, thách thức mà BEPS gây ra, từ đó có các chính sách, chương trình hành động đúng đắn, phù hợp với tình hình trong nước và chuẩn mực quốc tế.
– Tiếp tục thể hiện trách nhiệm thành viên của Diễn đàn hợp tác chung BEPS; Tăng cường hợp tác, hỗ trợ, chia sẻ kinh nghiệm với các quốc gia và các tổ chức quốc tế trong việc ngăn chặn BEPS bởi các biện pháp đơn phương và song phương không khả thi do số lượng các công ty đa quốc gia ngày càng tăng, quy mô lớn và giao dịch phức tạp.
– Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tăng sự minh bạch của hệ thống thuế… cùng với đó là đẩy mạnh nghiên cứu, kiểm tra, giám sát các DN có dấu hiệu chuyển giá, trốn thuế, vốn mỏng… từ đó, tạo môi trường thông thoáng, bình đẳng nhưng cũng chặt chẽ để sớm phát hiện và hạn chế tình trạng BEPS.
– Tiếp tục đề xuất, tham mưu Chính phủ trình Quốc hội các giải pháp tổng thể, đồng bộ ngăn chặn tình trạng BEPS, trong đó tập trung vào việc hoàn thiện chính sách thuế TNDN, đặc biệt là quy định khống chế khoản chi phí lãi tiền vay không được trừ vào chi phí đối với trường hợp khoản vay vượt quá nhiều lần vốn chủ sở hữu (Bởi quy định này có thể góp phần hạn chế tình trạng BEPS, đảm bảo quyền đánh thuế của Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế và tăng thu cho NSNN…).
Xói mòn cơ sở thuế hiện đang là một trong những thực trạng mang tính chất tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế toàn cầu nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Chính vì vậy, việc áp dụng những chính sách, các quy định nhằm hạn chế hành vi này.