Do nhiều nguyên nhân khác nhau, các cặp vợ chồng bị vô sinh ngày càng gia tăng. Do sự phát triển tiến bộ không ngừng của y học, các biện pháp kĩ thuật hỗ trợ sinh sản đạt được nhiều thành công vượt trội và hiện thực hóa ước mơ của nhiều người. Dưới đây là quy định của pháp luật về vấn đề xác định cha mẹ khi sinh con bằng phương pháp kĩ thuật hỗ trợ sinh sản.
Mục lục bài viết
1. Xác định cha mẹ khi sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản:
Trong cuộc sống hiện đại, gặp nhiều áp lực khác nhau và làm việc trong môi trường sống độc hại, đó là một trong những nguyên nhân cơ bản khiến cho các vợ chồng bị vô sinh và hiếm muộn. Để điều trị tình trạng vô sinh, rất nhiều chuyên gia nghiên cứu và bác sĩ đã đưa ra phương pháp hỗ trợ sinh sản để giúp đỡ cho các cặp vợ chồng có quyền làm cha, làm mẹ. Căn cứ theo quy định tại Điều 93 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về vấn đề xác định cha mẹ trong trường hợp sinh con bằng phương pháp kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Theo đó:
-
Trong trường hợp người vợ sinh con bằng quá trình sử dụng phương pháp kĩ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha mẹ con sẽ được áp dụng căn cứ theo quy định tại Điều 88 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014;
-
Trong trường hợp người phụ nữ sống độc thân sinh con bằng phương pháp kĩ thuật hỗ trợ sinh sản thì người phụ nữ đó sẽ được xác định là mẹ của con sinh ra;
-
Trong trường hợp sinh con bằng phương pháp hỗ trợ kĩ thuật sinh sản thì sẽ không làm phát sinh quan hệ cha mẹ và con giữa người cho tinh trùng, người cho noãn, người cho khôi với người con được sinh ra bằng phương pháp hỗ trợ đó;
-
Quá trình xác định cha mẹ con trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo sẽ được áp dụng căn cứ theo quy định tại Điều 94 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014.
Đối chiếu với quy định tại Điều 88 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về vấn đề xác định cha mẹ con. Theo đó, người vợ sinh con bằng biện pháp hỗ trợ kĩ thuật sinh sản thì việc xác định cha mẹ con sẽ được thực hiện như sau:
-
Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc con sinh ra do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân thì sẽ được xác định là con chung của cả hai vợ chồng;
-
Con sinh ra trong phản thời gian 300 ngày được tính bắt đầu kể từ thời điểm chấm dứt quan hệ hôn nhân thì sẽ được xem là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân;
-
Con sinh ra trước giai đoạn ngày đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền và được cha mẹ thừa nhận sẽ là con chung của vợ chồng;
-
Trong trường hợp cha mẹ không thừa nhận con thì cha mẹ cần phải có giấy tờ, chứng cứ, đồng thời được cơ quan có thẩm quyền đó là Toà án xác định.
Căn cứ theo quy định tại Điều 101 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về thẩm quyền giải quyết việc xác định cha mẹ con. Theo đó:
-
Cơ quan đăng ký hộ tịch là cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định cha mẹ con theo quy định của pháp luật về hộ tịch trong trường hợp cha mẹ không có tranh chấp;
-
Tòa án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết quá trình xác định cha mẹ con trong trường hợp cha mẹ có tranh chấp, hoặc người được yêu cầu xác định là cha mẹ con đã qua đời, và các trường hợp quy định tại Điều 92 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014;
-
Quyết định của cơ quan có thẩm quyền đó là tòa án về vấn đề xác định cha mẹ con bắt buộc phải được gửi cho cơ quan đăng ký hộ tịch, cơ quan đăng ký hộ tịch sẽ căn cứ vào đó để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch, các bên trong quan hệ xác định cha mẹ con, các cá nhân và cơ quan có liên quan theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.
Theo đó thì có thể nói, vấn đề xác định cha mẹ con khi sinh con bằng phương pháp kĩ thuật hỗ trợ sinh sản sẽ được xác định theo quy định tại Điều 88 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Con sinh ra sẽ được xác định là con chung của cả hai vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và thẩm quyền giải quyết vấn đề này sẽ được thực hiện theo quy định tại Điều 101 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014.
2. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trong trường hợp nào?
Căn cứ theo quy định tại Điều 3 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về sinh con bằng phương pháp kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Theo đó, sinh con bằng biện pháp kĩ thuật hỗ trợ sinh sản là khái niệm để chỉ quá trình sinh con sử dụng biện pháp kĩ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm.
Đồng thời, căn cứ theo quy định tại Điều 3
Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại Điều 2 của Nghị định 10/2015/NĐ-CP, có quy định cụ thể về vấn đề vô sinh. Theo đó, vô tình được xem là tình trạng của vợ chồng sau khoảng thời gian một năm chung sống với nhau, và có phát sinh quan hệ tình dục trung bình từ 02 lần đến 03 lần trong một tuần, không có sử dụng biện pháp tránh thai và biện pháp ngừa thai, tuy nhiên người vợ vẫn không mang thai trên thực tế. Đồng thời, phụ nữ độc thân được xem là phụ nữ không phát sinh quan hệ hôn nhân hợp pháp, không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Theo đó thì có thể nói, khi đáp ứng điều kiện là cặp vợ chồng vô sinh hoặc trong trường hợp là phụ nữ độc thân thì sẽ được áp dụng biện pháp kĩ thuật hỗ trợ sinh sản trong quan hệ hôn nhân gia đình.
3. Nguyên tắc sử dụng phương pháp kỹ thuật hỗ trợ sinh con?
Áp dụng phương pháp hỗ trợ kĩ thuật sinh sản trong quá trình sinh con cần phải tuân thủ theo một số nguyên tắc nhất định. Căn cứ theo quy định tại Điều 3 Nghị định 10/2015/NĐ-CP, có quy định về nguyên tắc áp dụng kĩ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Bao gồm các nguyên tắc cơ bản sau:
-
Cặp vợ chồng vô sinh, cá nhân được xác định là người phụ nữ độc thân không phát sinh quan hệ hôn nhân hợp pháp với bất kỳ cá nhân nào thì sẽ có quyền sinh con bằng phương pháp kĩ thuật hỗ trợ sinh sản, kĩ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định cụ thể của các y bác sĩ chuyên khoa, cặp vợ chồng vô sinh cũng có quyền nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phù hợp với quy định của pháp luật hôn nhân gia đình;
-
Vợ chồng mang thai hộ, người mang thai hộ, trẻ em sinh ra sau quá trình nhờ mang thai hộ sẽ được đảm bảo an toàn về đời sống riêng tư, đảm bảo an toàn bí mật cá nhân, bí mật gia đình đồng thời được pháp luật tôn trọng và bảo vệ;
-
Quá trình thụ tinh trong ống nghiệm, cho noãn, nhận noãn, cho tinh trùng, nhận tinh trùng, cho và nhận phôi, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo sẽ được thực hiện dựa trên nguyên tắc tự nguyện, không bị đe dọa hoặc ép buộc dưới bất kỳ hình thức nào;
-
Việc cho tinh trùng/nhận tinh trùng, cho phôi và nhận phôi sẽ được thực hiện dựa trên cơ sở nguyên tắc vô danh giữa người cho và người nhận, tinh trùng và phôi của người cho bắt buộc phải được mã hóa để đảm bảo tính bí mật riêng tư cá nhân tuy nhiên vẫn phải thể hiện rõ đặc điểm của người cho, đặc biệt là yếu tố chủng tộc;
-
Quá trình thực hiện phương pháp hỗ trợ kĩ thuật thụ tinh trong ống nghiệm cần phải được tuân thủ theo đầy đủ quy định tiêu chuẩn kĩ thuật do cơ quan có thẩm quyền ban hành, tuân thủ đầy đủ quy định tiêu chuẩn sức khỏe của người thực hiện kĩ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, mang thai và sinh con do bộ trưởng Bộ y tế quy định cụ thể.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
–
– Nghị định 10/2015/NĐ-CP sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.
THAM KHẢO THÊM: