Trong cuộc sống vợ chồng, chắc hẳn không ít các cặp vợ chồng có hành vi kiểm soát điện thoại của nhau. Vậy vợ kiểm tra điện thoại của chồng có vi phạm pháp luật?
Mục lục bài viết
1. Vợ kiểm tra điện thoại của chồng có vi phạm pháp luật?
Điều 38 Bộ luật Dân sự 2015 quy định rõ về Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, Điều này quy định Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình như sau:
– Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật của gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.
– Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật của cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai các thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được những thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác.
– Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và những hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật.
– Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và những hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật quy định.
– Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ các thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được ở trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Theo đó, pháp luật đã quy định đời sống riêng tư, bí mật của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ; việc thu thập các thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật của cá nhân phải được người đó đồng ý, nếu thu thập các thông tin liên quan đến bí mật gia đình thì phải được thành viên gia đình đồng ý; đồng thời pháp luật cũng quy định điện thoại của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Chính vì thế, nếu như vợ kiểm tra điện thoại của chồng và đã được chồng đồng ý thì hành vi đó không vi phạm pháp luật, còn nếu như vợ kiểm tra điện thoại của chồng một cách “lén lút” không có sự đồng ý của chồng thì hành vi đó được xem là hành vi xâm phạm đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của người khác, hành vi đó là hành vi vi phạm pháp luật.
2. Mức phạt khi vợ kiểm tra điện thoại của chồng:
Như đã phân tích ở mục trên, nếu như vợ kiểm tra điện thoại của chồng một cách “lén lút” không có sự đồng ý của chồng thì hành vi đó là hành vi vi phạm pháp luật. Điều 54 Nghị định 144/2021/NĐ-CP xử phạt hành chính lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội quy định về xử phạt hành chính hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của thành viên gia đình, Điều này quy định xử phạt hành chính hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của thành viên gia đình như sau:
– Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi lăng mạ, chì chiết, hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình.
– Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
+ Tiết lộ hoặc phát tán tư liệu, tài liệu thuộc bí mật đời tư của thành viên gia đình nhằm để xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
+ Sử dụng các phương tiện thông tin nhằm để xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình;
+ Phổ biến, phát tán tờ rơi, bài viết, hình ảnh nhằm để xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nạn nhân.
Theo quy định trên thì người có hành vi tiết lộ hoặc phát tán tư liệu, tài liệu thuộc bí mật đời tư của thành viên gia đình nhằm để xúc phạm danh dự, nhân phẩm của thành viên gia đình thì sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng cho đến 20.000.000 đồng. Như vậy, người vợ có hành vi kiểm tra điện thoại của chồng một cách “lén lút” không có sự đồng ý của chồng và tiết lộ hoặc là phát tán những thông tin mình đã thu thập được một cách trái phép nhằm để xúc phạm danh dự, nhân phẩm của chồng thì sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng cho đến 20.000.000 đồng, đồng thời người vợ phải buộc xin lỗi công khai đến người chồng nếu người chồng có yêu cầu và người vợ buộc phải thu hồi tư liệu, tài liệu, tờ rơi, bài viết, hình ảnh mà mình đã phát tán, tiết lộ. Còn nếu như người vợ chỉ kiểm tra điện thoại của chồng một cách “lén lút” không có sự đồng ý của chồng nhưng không có hành vi tiết lộ hoặc là phát tán những thông tin mình đã thu thập được một cách trái phép thì sẽ không bị xử phạt vi phạm hành chính.
3. Vợ kiểm tra điện thoại của chồng có bị truy cứu trách nhiệm hình sự:
Vợ có hành vi kiểm tra điện thoại của chồng mà không có sự đồng của chồng sẽ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác nếu như đủ các yếu tố cấu thành tội phạm. Điều 159 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 quy định về tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác, căn cứ Điều này thì nếu người vợ kiểm tra điện thoại của chồng mà không có sự đồng của chồng có thể đối mặt với những hình phạt sau:
– Phạt tiền: người vợ bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng nếu người vợ thực hiện một trong các hành vi sau đây, mà đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm:
+ Chiếm đoạt thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác (của chồng) được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông dưới bất kỳ hình thức nào;
+ Cố ý làm hư hỏng, thất lạc hoặc cố ý lấy những thông tin, nội dung của thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác (của chồng) được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông;
+ Nghe, ghi âm về cuộc đàm thoại trái pháp luật;
+ Khám xét, thu giữ các thư tín, điện tín trái pháp luật;
+ Hành vi khác xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc là hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác (của chồng).
– Phạt cải tạo không giam giữ: người vợ bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm nếu người vợ thực hiện một trong các hành vi sau đây, mà đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm:
+ Chiếm đoạt thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác (của chồng) được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông dưới bất kỳ hình thức nào;
+ Cố ý làm hư hỏng, thất lạc hoặc cố ý lấy những thông tin, nội dung của thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác (của chồng) được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông;
+ Nghe, ghi âm về cuộc đàm thoại trái pháp luật;
+ Khám xét, thu giữ các thư tín, điện tín trái pháp luật;
+ Hành vi khác xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc là hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác (của chồng).
– Phạt tù: người vợ bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm nếu người vợ phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây:
+ Có tổ chức;
+ Lợi dụng về chức vụ, quyền hạn;
+ Phạm tội từ 02 lần trở lên;
+ Tiết lộ những thông tin đã chiếm đoạt, làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác;
+ Làm nạn nhân (người chồng) tự sát.
– Hình phạt bổ sung: người vợ còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng cho đến 20.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Những văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự 2015;
– Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017;
– Nghị định 144/2021/NĐ-CP xử phạt hành chính lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội.