Viết bài văn nghị luận phân tích đánh giá một tác phẩm thơ giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn. Cùng tham khảo bài viết dưới đây của chúng mình để có thêm tài liệu ôn tập nhé.
Mục lục bài viết
1. Viết bài văn nghị luận phân tích đánh giá một tác phẩm thơ ấn tượng:
Nguyễn Tuân là một cây bút tài năng của nền văn học Việt Nam hiện đại. Một trong những tuyệt tác của ông là tác phẩm Chữ người tử tù. Hình ảnh nhân vật Huấn Cao và cảnh cho chữ – một cảnh tượng chưa từng thấy trước đây – được tác giả xuyên suốt trong đoạn trích.
Đoạn trích Chữ người tử tù là câu chuyện về một cai ngục mến mộ tài năng của Huấn Cao, đặc biệt là tài viết chữ Hán đẹp, nhưng trớ trêu thay số phận của Huấn Cao lại là một người bị kết án tử hình. Trước tài năng và cái đẹp của Huấn Cao, viên quản ngục đã âm thầm đối xử với ông một cách tôn trọng với mong muốn nhận được bức thư pháp quý giá. Viên quản ngục đã tìm mọi cách để có được bức thư pháp, nhưng vì Huấn Cao – tử tù tưởng viên quản ngục là người xấu nên đã không cho chữ. Cao trào của đoạn trích dâng cao khi tử tù bị đưa đến pháp trường, thì viên quản ngục lại được tử tù cho chữ và những lời động viên quý giá trong cuộc sống.
Tình huống trong truyện khiến cho câu chuyện đặc biệt hơn. Nguyễn Tuân đã xây dựng nên một tình huống truyện tưởng như có vẻ éo le nhưng chính cái eo le đó đã mang đến sự kịch tính của câu chuyện giữa nhân vật nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục, để hiện thực hóa những phẩm chất đẹp đẽ của một người tài đức vẹn toàn.
Với tính cách của Huấn Cao như vậy, khi viên quản ngục có ý định muốn xin chữ, đối xử tốt với mình, ông ta luôn tỏ ra thờ ơ và không hề quan tâm. Huấn Cao đã tưởng viên quản ngục là một người làm việc xấu và là tay sai của những tên quan lại tham ô, hối lộ, không xứng đáng làm quan. Tuy nhiên, ngược lại với những gì Huấn Cao nghĩ, viên quản ngục hiện ra trước mắt người đọc là một nhân vật lương thiện, biết phân biệt cái xấu và cái đẹp, và có một thú vui tao nhã là chơi chữ.
Khi biết được lòng tốt và mong muốn chính đáng, biết cách trân trọng cái đẹp, Huấn Cao liền đồng ý cho quản ngục chữ. Đó là vẻ đẹp kết hợp giữa cái Tài với cái Tâm. Có thể nói, cảnh cho chữ chưa từng xảy ra trước đây. Sau khi cho chữ, Huấn Cao cũng khuyên quản ngục hãy trở về quê hương để sống, tránh xa những nơi bon chen, cuộc sống bẩn thỉu, không phù hợp với những người thích chơi chữ như viên quản ngục.
Qua đó, tác giả cũng khẳng định cái đẹp có thể hiện hữu ở mọi nơi, mọi lúc, chế ngự mọi điều xấu xa, gian ác. Và cái đẹp cũng chính là sợi dây kết nối tâm hồn con người, giúp con người hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn. Cái đẹp sẽ không bao giờ mất đi ngay cả khi nó bị vùi dập. Đó chính là tính nhân văn đáng quý của tác phẩm.
2. Viết bài văn nghị luận phân tích đánh giá một tác phẩm thơ hay nhất:
Hàn Mặc Tử là một thi sĩ có phong cách thơ rất đặc biệt và độc đáo. Ông đã để lại nhiều tập thơ nổi tiếng như Gái Quê, Thơ Điên hay Chơi Giữa Mùa Trăng. Bài thơ “Mùa xuân chín” là một bài thơ tiêu biểu, góp phần tạo nên danh tiếng cho nhà thơ.
Hình ảnh mùa xuân ở quê thật yên bình, hữu tình và tràn đầy yêu thương. Trong làn sóng nhẹ nhàng của bầu trời, làn khói xa xa dường như tan biến, tạo nên vẻ đẹp mộng mơ, có cảm giác chân thực, không quá chi tiết, chỉ là một vài bóng lấm chấm nhưng ta không khỏi xao xuyến trước bầu trời yên bình lúc này. Mùa xuân đang len lỏi vào cảnh vật, trời báo xuân về, xuân về, cỏ cây, thiên nhiên, đất trời và lòng người như hòa mình vào nhau:
“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;”
Vạn vật đều mang năng lượng mùa xuân, tắm trong mưa xuân, thêm sức sống mới cho cỏ cây, “gợn sóng lên trời” như đang đùa giỡn với nắng, gió và mây. Tiếng hát xuân của bao cô gái làng đầy yêu thương. Khi mùa xuân đến, ai cũng vui tươi, rộn ràng, tâm hồn tràn đầy sức trẻ và yêu đời. Giai điệu nhạc cất lên cùng lời ca:
” Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.”
Tình yêu cuộc sống được khắc họa qua lời ca ngây thơ, trong sáng, tinh nghịch của “tiếng hát” sau lưng núi hòa vào cảnh vật, vang vọng mãi. Những âm thanh như đang chuyển động theo nhịp thời gian, “tự phát” “thì thầm” với nhau, đầy ý nghĩa và trìu mến. Âm thanh của thơ đầy tính nghệ thuật khiến người ta cảm thấy phấn khích và xào xạc lạ lùng.
“Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”
Nếu ở khổ thơ đầu có hình ảnh cỏ cây xanh tươi thì đây là hình ảnh trái ngược khi mùa xuân chín muồi, mùa xuân không còn thi vị như vừa hát mà là màu tiếc nuối, màu của nắng, màu làng quê. “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Âm “ang” ở cuối bài thơ mang lại cho bài thơ một cảm giác buồn bã khó tả như lòng người nhẹ nhõm hơn, bớt nặng nề buồn bã hơn cho số phận người con gái:
” Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”
Bài thơ rất nhẹ nhàng, ngôn ngữ giản dị nhưng nhà thơ đã lựa chọn rất tinh tế. Mỗi lời thơ là một bầu trời yêu thương mang theo cả nỗi đau, nỗi nhớ nhung cho giấc mơ trở về quê hương khó khăn, gian khổ. Bằng ngôn ngữ kết tinh và trái tim nhân hậu, Hàn Mặc Tử đã viết nên một “xuân chín” tròn trịa, mượt mà, đầy đam mê.
3. Viết bài văn nghị luận phân tích đánh giá một tác phẩm thơ nâng cao:
Bài thơ “Rằm tháng giêng” được Bác Hồ viết trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ không miêu tả hình ảnh thiên nhiên vùng chiến sự
Bài thơ bắt đầu bằng hình ảnh ánh trăng về đêm ở chiến khu
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên”
(Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất)
Hình ảnh ánh trăng vào đêm rằm tháng giêng âm lịch được gia đình miêu tả là “nguyệt chính viên” (trăng đúng lúc tròn nhất). Ánh trăng này dường như bao phủ toàn bộ núi rừng Việt Bắc, khiến khung cảnh trở nên ấm áp hơn. Ở câu tiếp theo, hình ảnh thiên nhiên lại càng đẹp hơn:
“Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên”
(Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân)
Ba chữ “xuân” nối tiếp nhau thể hiện sức sống, sắc màu của mùa xuân đang trỗi dậy trong mọi không gian. Chữ “tiếp” mang lại cho người đọc cảm giác như đất trời đang hòa hợp với nhau bởi sắc xuân rực rỡ. Như vậy, hai câu mở đầu bài thơ đã khắc họa nên bức tranh thiên nhiên những đêm trăng rằm, tràn đầy sức sống.
Phải chăng vì mải mê bàn việc làm nước nên khi về thì đã khuya? Lúc này, ánh trăng sáng hơn bao giờ hết. Hình ảnh “thuyền trăng” muốn thể hiện sức lan tỏa sức mạnh của ánh trăng trong đêm rằm tháng giêng âm lịch. Qua đó, Bác Hồ muốn bày tỏ mong muốn thành công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Với hai câu thơ sau, người đọc dường như thấy được một thái độ thong thả, lạc quan và niềm tin vĩnh cửu rằng sự nghiệp giải phóng dân tộc nhất định sẽ thắng lợi.
“Rằm tháng giêng” là một bài thơ viết bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt mang đậm nét cổ điển. Thiên nhiên trong bài thơ được khắc họa bằng những hình ảnh thiên nhiên quen thuộc trong thơ xưa như ánh trăng, dòng sông, trời đất, thuyền bè. Cùng với sự kết hợp giữa biện pháp tu từ ám chỉ đã giúp nhà thơ miêu tả một cách sống động hình ảnh ánh trăng về đêm ở chiến khu Việt Bắc.
Qua bài thơ trên, chúng ta không chỉ tìm thấy tâm hồn nhà thơ buồn bã, đa cảm mà còn tìm thấy một con người kiên cường, trung thành với cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.