Vì sao khu vực Đông Nam Á trở thành đối tượng bị xâm lược?

Cũng giống như các khu vực khác ở châu Á và châu Phi, Đông Nam Á trở thành đối tượng xâm lược của các nước phương Tây. Hãy tham khảo bài viết dưới đây để biết vì sao các quốc gia này bị xâm lược và trở thành thuộc địa.

1. Bối cảnh các nước Đông Nam Á trước khi bị xâm lược:

Đông Nam Á (gọi tắt là SEA) nằm ở phía đông nam châu Á, bao gồm bán đảo Đông Dương và quần đảo Mã Lai. Bán đảo Đông Dương có tên như vậy vì nó nằm ở phía nam của Trung Quốc, và phần mảnh mai ở phía nam được gọi là bán đảo Mã Lai. Quần đảo Mã Lai nằm rải rác trong vùng biển rộng lớn giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, là quần đảo lớn nhất thế giới với tổng số hơn 20.000 hòn đảo, thuộc Indonesia, Malaysia, Timor-Leste, Brunei và Philippines.

Khu vực Đông Nam Á có 11 quốc gia: Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Singapore, Brunei, Indonesia và Đông Timor , có diện tích khoảng 4,57 triệu km2.

Trước khi bị xâm lược các nước Đông Nam Á đang trong thời kỳ phong kiến và đạt được những thành quả nhất định trên các mặt văn hóa, chính trị và xã hội. Tuy nhiên, đến cuối thời kỳ phong kiến sự bóc lột tàn bạo của giai cấp thống trị khiến cho đời sống nhân dân khó khăn, tiềm lực đất nước suy cạn.

2. Quá trình các nước Đông Nam Á bị xâm lược:

Từ giữa thế kỉ 19 sau khi các nước đế quốc phương Tây căn bản hoàn thành cách mạng tư sản và thực hiện chiến lược đua nhau bành trướng thế lực, xâm lược các thuộc địa thì ở hầu hết các nước khu vực Đông Nam Á.

Ở In-đô-nê-xi-a, ngay từ thế kỉ 15 – 16 thực dân các nước Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Hà Lan đã có mặt và từng bước xâm chiếm thị trường. Đến giữa thế kỉ 19, đế quốc Hà Lan hoàn thành việc xâm lược trên đất nước này.

Ở Miến Điện (nay là Mi-an-ma), thực dân đế quốc Anh đã ba lần tiến hành chiến tranh xâm lược. Đến năm 1885, Anh đã hoàn thành việc thôn tính Miến Điện, nước này thành một tỉnh của Ấn Độ thuộc Anh.

Ba nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia bị thự dân Pháp xâm lược. Đến cuối thế kỉ 19 Pháp đã hoàn thành quá trình xâm lược và đẩy mạnh khai thác thuộc địa.

Malaixia trở thành thuộc địa của Anh. Từ thế kỷ 16, Malaysia liên tiếp bị xâm lược và cướp bóc bởi Bồ Đào Nha, Hà Lan và Vương quốc Anh. Từ những năm 1880, nó dần bị người Anh chiếm đóng và trở thành thuộc địa của Anh.

Philippines bị Tây Ban Nha xâm chiếm từ năm 1565 và trở thành thuộc địa. Sau cuộc chiến tranh giành giữa Tây Ban Nha và Mĩ, Philippines bị Mỹ chiếm đóng.

Thái Lan bị xâm lược bởi Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh từ thế kỷ 16. Vào cuối thế kỷ 19, nó trở thành một “nước đệm” giữa các thuộc địa của Anh và Pháp. Đây là nước duy nhất ở Đông Nam Á không trở thành thuộc địa.

3. Vì sao khu vực Đông Nam Á trở thành đối tượng bị xâm lược?

Dưới đây là các nguyên nhân khiến Đông Nam Á trở thành đối tượng xâm lược của phương Tây:

– Vị trí địa lý thuận lợi

– Tài nguyên thiên nhiên phong phú

– Sự bất lợi của khu vực trong thời điểm này.

4. Vị trí địa lý vượt trội của Đông Nam Á:

Vị trí địa lý vượt trội là nguồn lực chiến lược có giá trị kinh tế chính trị lớn nhất, trọng điểm tranh chấp. Đông Nam Á nằm ở cánh phía đông của “Vùng Trăng lưỡi liềm”, bóp nghẹt “ngã tư đường” giữa châu Á và Australia, Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, là tuyến giao thông nối liền Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, đồng thời là một cầu nối Châu Á và Châu Đại Dương.

Từ xa xưa, Đông Nam Á đã là con đường chính để người dân phương Đông và phương Tây giao lưu với nhau, đến thời hiện đại, nó đã trở thành trung tâm giao thông đường biển và đường hàng không của thế giới. Đặc biệt, eo biển Malacca nằm giữa quần đảo Sumatra thuộc bán đảo Mã Lai có tổng chiều dài 1.080 km, chỗ hẹp nhất khoảng 32 km, độ sâu 25-150 m, từng là “huyết mạch phương Đông” của đế quốc Anh trong thời kỳ thuộc địa. Giờ đây, nó là eo biển nhộn nhịp nhất thế giới bên cạnh eo biển Manche và eo biển Hormuz. Trung bình mỗi ngày có hơn 200 tàu đi qua, và hơn 80.000 tàu đi qua khắp cả nước năm. Trong số đó, Nhật Bản có 5-6.000 tàu mỗi năm, có khi 7- 8.000 tàu mỗi năm và 90% dầu thô đi qua eo biển Malacca nên được gọi là “huyết mạch hàng hải của Nhật Bản”. Nhiều nguồn tài nguyên của Mỹ, Canada, Australia và một số nước châu Âu cũng đi qua eo biển.

Đối với các nước phương Tây nếu chiếm được khu vực này sẽ có thể thống lĩnh cả vùng châu Á. Ngoài ra để kết nối hai thị trường thuộc địa lớn là Trung Quốc và Ấn Độ, với chi phí vận chuyển tương đối thấp thì việc biến Đông Nam Á trỏ thành thuộc địa là vô cùng cần thiết.

5. Tài nguyên phong phú của Đông Nam Á:

Tài nguyên phong phú Đông Nam Á chiếm 60% thế giới, sản lượng cao su tự nhiên chiếm hơn 80% thế giới, sản lượng và xuất khẩu cây gai dầu, bông gạo của Manila chiếm hơn 90% thế giới, và sản lượng gạo chiếm 1/2 thế giới. Tài nguyên nông nghiệp và khai khoáng dồi dào khiến Đông Nam Á trở thành “điểm nóng” cạnh tranh gay gắt giữa các nước đế quốc trong thời kỳ thuộc địa. Đông Nam Á có nguồn tài nguyên phong phú và có lợi thế riêng, những nguồn tài nguyên có quan hệ mật thiết với sự phân bố năng suất và phương hướng phát triển của các nước đế quốc. Kẻ nào giành được quyền kiểm soát và chi phối các khu vực nói trên sẽ tìm được nơi cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu rẻ và nắm được vũ khí hữu hiệu để đánh bại sự cạnh tranh thuộc địa.

6. Địa hình thuận lợi cho việc xâm lược của các nước phương Tây:

Sự chia cắt dân cư và hiệu ứng ly tâm do điều kiện tự nhiên gây ra khiến cho sự cạnh tranh thuộc địa càng trở nên gay gắt. Đây là một khu vực nơi cư dân bộ lạc gặp khó khăn trong giao tiếp, thiếu sự kết nối do ảnh hưởng bởi địa hình chia cắt và địa hình phức tạp, hoặc bởi các rào cản của sa mạc rộng lớn. Đông Nam Á bao gồm các bán đảo và quần đảo rộng lớn với các địa hình bị chia cắt. Về mặt cấu trúc, nó thuộc tam giác va chạm của mảng châu Á, mảng Ấn Độ Dương và mảng Thái Bình Dương. Đặc điểm cấu trúc và địa mạo xác định dân cư chủ yếu tập trung ở vùng đồng bằng cửa sông và ven biển các đảo thuộc khu vực bán đảo có địa hình kéo dài từ bắc xuống nam, núi sông bố trí xen kẽ. Thời kỳ trình độ phát triển năng suất còn lạc hậu, do thiếu các phương tiện thông tin, công cụ liên lạc hữu hiệu nên các bộ lạc bị chia cắt mạnh mẽ, khi có giặc ngoại xâm thì không thể điều động, phối hợp với bên ngoài.

Có thể lấy ví dụ như sau Chiến tranh thế giới thứ hai, tàu và máy bay là công cụ liên lạc chính, nhưng bị ảnh hưởng bởi trình độ phát triển kinh tế và sự khác biệt giữa các khu vực, việc áp dụng công nghệ liên lạc hiệu quả bị hạn chế cả về không gian và số lượng, và không thể tăng cường kết nối giữa các khu vực khác nhau về cơ bản.

Hơn nữa lúc này chế độ chính trị của các nước Đông Nam Á đang gặp khủng hoảng sâu sắc, tầng lớp quý tộc và chính quyền ăn chơi sa dọa khiến cho tiềm lực đất nước cạn kiệt, nhân dân cực khổ, phương Táy có thể lợi dụng mâu thuẫn trong xã hội ngày càng sâu sắc để thâm nhập vào khu vực

7. Vị trí phát triển kinh tế và văn hóa thuận lợi:

Các yếu tố địa – văn hóa phức tạp và các vấn đề lịch sử trong khu vực là cơ sở hình thành nên nền văn hóa phức tạp của Đông Nam Á. Xét từ góc độ thành phần dân tộc, có nhiều các nhóm văn hóa dân tộc ở mỗi quốc gia, và thậm chí có thể lên tới hơn 100 nhóm. Đây là một nhóm dân tộc và là nơi tiếp nhận chính của những người nhập cư Trung Quốc trong thời hiện đại. Từ góc độ cấu thành văn hóa, nó mang dấu ấn của văn hóa Trung Quốc và Ấn Độ bởi vị trí địa lý của nó nằm giữa hai nguồn gốc văn minh lớn là Trung Quốc và Ấn Độ; văn hóa Hồi giáo được du nhập do sự can thiệp của người Ả Rập sau thời Trung cổ.

Các nước phương Tây muốn xâm lược khu vực này sau ” Phát kiến địa lý vĩ đại” nhằm mục đích lần lượt mang theo những nền văn hóa của mình đến đây để gây ảnh hưởng. Do đó, ba tôn giáo lớn của thế giới là Ấn Độ giáo, Nho giáo Trung Quốc và Thiên chúa giáo của phương Tây đã được truyền bá rộng rãi, khiến khu vực này trở thành “ngã tư đường” cho cư dân, văn hóa và tôn giáo thế giới, từ đó tạo cơ sở cho việc hình thành các điểm nóng về địa lý nhân văn mà các nước phương Tây đều muốn chiếm giữ.

    5 / 5 ( 1 bình chọn )