Điều khiển phương tiện giao thông đường sắt. Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt bị xử phạt như thế nào?
Phương tiện giao thông đường sắt ra đời đã đáp ứng được nhu cầu vận tải hàng hóa và đi lại của con người. Phục vụ hành khách và bảo đảm an toàn tốt nhất luôn là mục tiêu mà các công ty cung cấp dịch vụ vận chuyển hành khách hướng tới trong đó có lĩnh vực đường sắt.
Tại Việt Nam, vấn đề đảm bảo an toàn đường sắt trong những năm qua luôn được quan tâm, có nhiều yếu tố nguy cơ dẫn đến mất an toàn đường sắt trong đó phải kể đến nguyên nhân do vi phạm quy định về an toàn giao thông trong khi chỉ huy hoặc điều khiển các phương tiện giao thông đườn sắt gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác.
Điều 208 Bộ luật hình sự quy định Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt như sau:
“ 1. Người nào chỉ huy, điều khiển phương tiện giao thông đường sắt mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường sắt gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Không có giấy phép, bằng hoặc chứng chỉ chuyên môn tương ứng với nhiệm vụ được giao;
b) Trong tình trạng dùng rượu, bia quá nồng độ quy định hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;
c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người chỉ huy hoặc người có thẩm quyền điều khiển, giữ gìn trật tự, an toàn giao thông đường sắt;
đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
4. Phạm tội trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”
1. Dấu hiệu pháp lý
a) Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này tuy không phải là chủ thể đặc biệt, nhưng chỉ những người chỉ huy hoặc điều khiển các phương tiện giao thông đường sắt mới là chủ thể của tội phạm này.
Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì tội phạm này là tội phạm được thực hiện do vô ý và không có trường hợp nào là tội đặc biệt nghiêm trọng.
b) Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm này là trật tự an toàn giao thông đường sắt.
Đối tượng tác động của tội phạm này là phương tiện giao thông đường sắt bao gồm đầu máy, toa xe và các thiết bị chuyên dùng để vận chuyển hành khách và hàng hoá.
c) Mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt thực hiện hành vi là do vô ý (vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả).
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
d) Mặt khách quan của tội phạm
Người phạm tội này đã có hành vi vi phạm các quy định về chỉ huy hoặc điều khiển phương tiện giao thông đường sắt như sau:
– Không có giấy phép, bằng hoặc chứng chỉ chuyên môn tương ứng với nhiệm vụ được giao;
– Trong tình trạng dùng rượu, bia quá nồng độ quy định hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;
– Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;
– Không chấp hành hiệu lệnh của người chỉ huy hoặc người có thẩm quyền điều khiển, giữ gìn trật tự, an toàn giao thông đường sắt;
– Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
Vi phạm các quy định về chỉ huy hoặc điều khiển phương tiện giao thông đường sắt là không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ các quy định an toàn giao thông đường sắt.
Đối với tội vi phạm các quy định về chỉ huy hoặc điều khiển phương tiện giao thông đường sắt không chỉ có hành vi vi phạm của người điều khiển mà còn có cả hành vi vi phạm của người chỉ huy phương tiện giao thông đường sắt. Vì vậy, khi xác định hành vi vi phạm về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt, phải phân biệt hành vi chỉ huy và hành vi điều khiển phương tiện giao thông đường sắt.
e) Hậu quả
Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này.
Nếu hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt mà chưa gây ra thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác thì chưa cấu thành tội phạm, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 của điều 208 Bộ luật hình sự.
2. Hình phạt
Có ba khung hình phạt khi phạm tội này như sau:
Khung một: Phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.
Khung hai: Phạt tù từ ba năm đến mười năm.
Khung ba: Phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
Khung bốn: Phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
Ngoài ra người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.