Vẻ đẹp ngôn ngữ của bài thơ Tây Tiến đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt, khiến cho tác phẩm này trở thành một trong những bài thơ hay nhất của thơ ca Việt Nam hiện đại. Dưới đây là bài văn phân tích vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca trong bài thơ Tây Tiến.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca trong bài thơ Tây Tiến:
Mở bài:
- Giới thiệu về tác phẩm Tây Tiến
- Giới thiệu về nhà thơ
Quang Dũng - Dẫn dắt vào đề bài yêu cầu phân tích: Vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Thân bài:
* Vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca trong bài thơ:
- Vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ ca trong một bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố âm nhạc, hình ảnh, ý nghĩa và cảm xúc.
- Một bài thơ có thể sử dụng những từ ngữ đơn giản, nhưng nếu được sắp xếp một cách tinh tế và sử dụng các phép tu từ, ngôn ngữ hình ảnh, âm điệu, thì sẽ tạo ra một vẻ đẹp đầy mê hoặc và sức cuốn hút.
- Điều quan trọng nhất trong ngôn ngữ thơ ca là khả năng gợi lên cảm xúc và hình ảnh trong tâm trí của người đọc. Từ đó, người đọc có thể cảm nhận được vẻ đẹp riêng của bài thơ và được lôi cuốn vào thế giới mà bài thơ muốn tạo ra.
* Đường hành quân giữa thiên nhiên Tây Bắc
- Hai câu thơ đầu: lời gọi “Tây Tiến ơi” thân thương, “nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ bao trùm không gian.
- Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc dữ dội:
+ Địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi sự xa xôi;
+ Các từ láy : “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, điệp từ “Dốc lên… dốc lên” gợi địa hình hiểm trở, gập ghềnh.
+ Hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện địa hình cao ngời ngợi người lính phải vượt qua.
+ Nhịp thơ “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” gợi tả sự nguy hiểm.
+ Hình ảnh nhân hóa: “cọp trêu người”, “thác gầm thét” gợi sự man dại; thời gian: “chiều chiều”, “đêm đêm” là điều hiểm nguy chốn rừng nước.
+ Sử dụng các thanh trắc nhằm nhấn mạnh sự ghập ghềnh của địa hình.
- Khung cảnh thiên nhiên êm dịu: “nhà ai Pha Luông …”, “cơm lên khói”, “Mai Châu mùa em…”, tạo cảm giác nhẹ nhàng, yên bình.
- Hình ảnh bi hùng “dãi dầu không bước nữa”, “gục lên súng mũ bỏ quên đời”: có thể đơn thuần miêu tả thời gian nghỉ ngơi của người lính, cũng có thể hiểu đó là sự ra đi vĩnh viễn.
Thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ nhưng hiểm nguy, những thử thách đối với những người lính Tây Tiến.
* Kỉ niệm đẹp về tình quân dân Tây Bắc
- Kỉ niệm đêm liên hoan:
+ Không khí đêm liên hoan với màu sắc rực rỡ: “bừng lên”, “hội đuốc hoa”, “khèn lên man điệu”; hình ảnh con người duyên dáng: “xiêm áo”, “nàng e ấp”.
+ Tâm hồn người lính bay bổng trong không khí ấm áp: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
- Khung cảnh sông nước vùng Tây Bắc:
+ Đẹp huyền ảo, thiêng liêng: “Chiều sương”, “hồn lau nẻo bến bờ”
+ Con người lao động bình dị: “dáng người trên độc mộc”, cảnh vật đầy sức sống: “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Nhờ bút pháp tài hoa, Quang Dũng đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên và cuộc sống sinh hoạt đầm ấm ftt5của vùng Tây Bắc.
* Hình tượng người lính Tây Tiến
- Chân dung người lính được miêu tả chân thực: “đoàn binh không mọc tóc”, “xanh màu lá”, họ sống và chiến đấu trong điều kiện khắc nghiệt, thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn mạnh mẽ “dữ oai hùm”.
- Họ là con người có tâm hồn lãng mạn,yêu thương “Mắt trừng gửi mộng” / “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, lấy người thương quê nhà làm động lực.
- Vẻ đẹp bi tráng của họ:
+ Sẵn sàng cống hiến cho đất nước “rải rác biên cương mồ viễn xứ”, “chẳng tiếc đời xanh”, “anh về đất”, ra đi nhẹ nhàng.
+ Cái chết được lí tưởng hóa như tráng sĩ xưa: “áo bào”, “khúc độc hành”; đến nỗi thiên nhiên cũng đau đớn thay cho họ.
* Lời hẹn ước của tác giả
- Câu thơ nhắc nhớ lại ý nguyện khi ra đi một thời của người lính Tây Tiến: “người đi không hẹn ước”, và cũng là lời tiếc thương những đồng đội đã hi sinh
- Niềm thương nhớ gửi lại nơi đoàn quân Tây Tiến rừng núi Tây Bắc “Ai lên Tây Tiến … / Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.
Kết bài:
Nêu cảm nhận cá nhân về vấn đề cần phân tích
2. Vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng:
Nhà văn nổi tiếng M.Gorki đã nói: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để đọc giả tiếp cận và sống cùng với tác phẩm. Việc sáng tạo ngôn từ để làm nên một tác phẩm hay không bao giờ là chuyện đơn giản cả. Chính vì thế nhà thơ là người phu chữ cần cù học tập ngôn ngữ để chế tạo và sáng tạo ra ngôn ngữ của thơ ca. Và vẻ đẹp ngôn ngữ của “Tây Tiến” là cách để nhà thơ Quang Dũng khẳng định tài năng của mình.
Đối với Quang Dũng, Tây Tiến là miền nhớ, miền thương. Bài thơ ra đời khi tác giả trở về làng Phù Lưu Chanh, vì vậy nó chính là những dòng kỉ niệm cùng những chiến sĩ nơi núi rừng miền Tây trong những tháng ngày dài cùng nhau chiến đấu với quân thù. Bài thơ cũng là lời ca hào hùng, hào hoa của người lính trẻ vừa rời khỏi ghế nhà trường đã xông pha chiến đấu.
“Tây Tiến” là những “vần thơ lửa chảy” nên ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ cũng mang nét hào hùng và nét hào hoa với hình tượng trữ tính, cổ điển riêng.
Đầu tiêu nhà thơ đưa tác giả đến với khúc tráng ca đầy dũng mãnh nơi thiên nhiên núi rừng Tây Tiến:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.
Đó là những hình ảnh nhân hóa tạo nên sự hoang sơ, bí hiểm của núi rừng thiên nhiên Tây Bắc. Những trạng ngữ “Chiều chiều, đêm đêm” chỉ thời gian lặp lại vĩnh hằng càng làm cho câu thơ trùng xuống. Sức mạnh của thiên nhiên nơi đây không phải chỉ có một khoảnh khắc mà đã là “chiều chiều, đêm đêm”.
Đứng trước ngàn gian khó, những câu thơ vẫn rắn rỏi, đậm chất lính:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới…”
Hai câu thơ đầu vang lên với cách nói khẩu khí thẳng băng bằng “ngôn ngữ lính” tạo nên vẻ trần trụi của hiện thực. Câu thơ với hìn ảnh “không mọc tóc” cùng làn da “xanh màu lá” là hậu quả của những trận sốt rét vừa chạm tới địa hạt của hiện thực vừa được nâng lên bằng ánh nhìn lãng mạn. Cụm từ “không mọc tóc” làm cho câu thơ trở nên rắn rỏi; câu thơ ngang tàng với hình ảnh trung tâm là con người trong tâm thế chủ động, hiên ngang. Biện pháp ẩn dụ vùng biện pháp phóng đại “dữ oai hùm” khiến người lính mang dáng vẻ uy nghi, khiến ốm mà không yếu của những tráng sĩ chinh phu.
Đặc biệt là giọng thơ trầm hùng tạo nên cái bi tráng:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Câu thơ sử dụng những từ Hán Việt như: “biên cương” “viễn xứ”, “chiến trường”, “áo bào”, “độc hành” làm cho lời thơ trầm lắng, giọng thơ bi tráng. Cách nói chủ động: “chẳng tiếc đời xanh” khẳng địnhbậc nam nhi coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Hình ảnh “áo bào” nhắc đến những Kinh Kha bên bờ Dịch: “Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn” kết hợp cùng biện pháp nói giảm nói tránh khiến người lính hiện lên thật cao đẹp. Đối với họ, cái chết đơn giản chỉ là sự trở về và chiến đấu hết mình với tâm thế nhẹ nhàng. Nó là biểu hiện của những con người yêu giống nòi, quyết tâm chiến đấu, hi sinh vì những lẽ sống lớn. Họ là những “chủ thể đầy ý thức của lịch sử”, biết ước mơ,và khi cần thì sẵn sàng hiến dâng. Sự ra đi của họ cất lên thành khúc “độc hành” của dòng sông Mã đầy trang trọng với tầm vóc con người sánh ngang với vũ trụ.
Cùng với vẻ đẹp trầm hùng “Tây Tiên” còn hiện lên với những câu thơ tài hoa, lãng mạn tạo nên hồn thơ Quang Dũng hiện đại nhưng vẫn mang phong vị cổ điển.
“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Người đọc “Tây Tiến” vô cùng ấn tượng với chữ “nhớ chơi vơi” là trạng thái của nỗi nhớ hay trạng thái của cảnh vật. Nó là cái chông chênh của kẻ đang phải lìa xa nơi từng gắn bó là núi rừng miền Tây? Cả hai chủ thể dường như đồng hiện trong một chữ “chơi vơi” ấy.
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Chữ “Nhớ ôi” thật nghèn nghẹn! Không phải “ôi nhớ” ; cũng không phải “nhớ ôi là nhớ” hay “nhớ ôi” mà là “nhớ ôi” hướng về mình tạo nên một nỗi nhớ nhung cồn lên. Quang Dũng tạo ra một nét nghĩa táo bạo, đa tình trong từ ngữ: “mùa em” khiến cho Mai Châu không chỉ là một địa danh với kỉ niệm của xôi nếp đầu mùa với tình quân dân mà còn là hình ảnh những cô gái duyên dáng. Sau này khi Tây Tiến mờ dần theo những thăng trầm lịch sử nhưng tiếng gọi kia vẫn sẽ còn gieo vào lòng người những bồi hồi một thuở:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Một từ “chiều sương” gợi được cả thời gian và không gian. Trong khi sương là một nỗi buồn thiên cổ gợi về: “Dặm liễu sương sa khách bước dồn (thơ của Bà Huyện Thanh Quan) cho ta một cảm giác rất nhẹ nhàng, thì từ “ấy” vô danh lại rất hữu ý. Nó gợi nhắc đến thời gian nào đó, khiến cả chủ thể cũng không xác định được. Đó là những là ngày, những buổi chiều vô danh mang tên kỉ niệm, nỗi nhớ. Hình ảnh “hoa” gợi về hình ảnh Tây Bắc ngàn hoa cũng là hình ảnh của cái đẹp. Hoa đang làm duyên với gió nước cũng là hình ảnh ẩn dụ của người con gái tình tứ mà kín đáo. Câu thơ xuất phát từ có cái duyên của cảnh, của người hay là từ đôi mắt tình tứ của người ngắm cảnh.
Cái đặc biệt nhất của Tây Tiến là nét hào hùng và hào hoa như thưởng tranh, thưởng nhạc vậy:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” có tới 5 chữ là thanh trắc cùng với điệp từ “dốc” và các từ láy “khúc khuỷu, thăm thẳm” gợi tả hình ảnh chặng đường hành quân quanh co, lên cao mãi. Trong khi đó từ láy “heo hút” mang lại cảm giác xa xôi, hẻo lánh và còn khiến người ta bất ngờ hơn với hình ảnh: “cồn mây”. Đến câu thơ tiếp theo đột ngột tách làm đôi, tạo nên hai chặng đường hành quân cùng điệp ngữ “ngàn thước” kết hợp với nghệ thuật đối lập “cao- xuống” gợi tả độ sâu đầy dữ dội, hiểm trở. Nếu câu thơ trên mang âm hưởng trắc trở thì câu thơ lại tạo nên nét mềm mại, nhẹ nhàng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Như vậy có thể thấy hình ảnh thơ giản dị nhưng đem đến hiệu quả không ngờ. “Tây Tiến” là một dẫn chứng tiêu biểu về sự tài hoa trong cách sử dụng từ ngữ, khiến người đọc như “ngậm nhạc trong miệng”. Bút pháp hiện thực cùng với bút pháp lãng mạn tạo nên vẻ đẹp hào hùng và bi tráng cho những câu thơ mang phong vị rất riêng: vừa dung dị, vừa bay bổng. “Tây Tiến” tràn đầy nỗi nhớ, cũng có thể coi là lời nguyện ước của những thanh niên sẵn sàng hiến dâng tuổi trẻ cho đất nước thân yêu.
3. Các điểm cần chú ý khi viết về vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca trong bài thơ Tây Tiến:
Ngôn ngữ giàu hình ảnh, gợi cảm:
-
Hình ảnh thiên nhiên đa dạng, sống động: Quang Dũng đã sử dụng những hình ảnh thiên nhiên rất đặc trưng của Tây Bắc như: sông Mã, rừng già, dốc cao, thác gầm… Những hình ảnh này không chỉ gợi tả khung cảnh mà còn tạo nên một không gian rộng lớn, hùng vĩ.
-
Hình ảnh người lính đậm nét: Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên với những nét đặc trưng riêng. Các hình ảnh này không chỉ miêu tả ngoại hình mà còn thể hiện phẩm chất, tinh thần của người lính.
-
Ngôn ngữ giàu chất tạo hình: Quang Dũng đã sử dụng nhiều từ láy, điệp ngữ, liệt kê để tạo nên những câu thơ giàu nhạc điệu, tạo hình. Ví dụ: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”, “Chiều chiều oai linh thác gầm thét”.
Biện pháp nghệ thuật phong phú:
-
Nhân hóa: Thiên nhiên được nhân hóa, trở nên sinh động, có hồn. Ví dụ: “Thác gầm thét, cọp trêu người”.
-
So sánh: Các sự vật, hiện tượng được so sánh với nhau, tạo nên những hình ảnh bất ngờ, độc đáo.
-
Ẩn dụ: Hình ảnh được ẩn dụ để diễn tả những ý nghĩa sâu xa. Ví dụ: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”.
-
Điệp ngữ: Điệp ngữ tạo nên nhịp điệu, nhấn mạnh ý tưởng. Ví dụ: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”.
Âm điệu đa dạng:
-
Âm điệu hào hùng, tráng ca: Những câu thơ như “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” hay “Chiều chiều oai linh thác gầm thét” tạo nên âm điệu hào hùng, tráng ca.
-
Âm điệu trầm buồn, sâu lắng: Bên cạnh đó, bài thơ cũng có những đoạn thơ mang âm điệu trầm buồn, sâu lắng, thể hiện nỗi nhớ, nỗi buồn.
Cấu trúc bài thơ độc đáo:
-
Cấu trúc tự do: Bài thơ không tuân theo một khuôn mẫu cố định mà có sự linh hoạt, tự do trong việc sắp xếp câu chữ.
-
Kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn: Bài thơ vừa miêu tả chân thực cuộc sống chiến đấu gian khổ, vừa sử dụng những hình ảnh lãng mạn, gợi cảm.
Ngôn ngữ cổ điển và hiện đại kết hợp hài hòa:
-
Ngôn ngữ cổ điển: Quang Dũng đã sử dụng nhiều từ Hán Việt, những câu thơ có vần điệu, tạo nên một không khí cổ kính, trang trọng.
-
Ngôn ngữ hiện đại: Bên cạnh đó, bài thơ cũng sử dụng nhiều từ ngữ, cách diễn đạt hiện đại,
THAM KHẢO THÊM: