Vay tiền bên FE Credit nhưng không có khả năng chi trả có bị khởi kiện? Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản?
Có rất nhiều hình thức vay khác nhau như vay( tín chấp, thế chấp,..) ngân hàng, vay giữa các nhân với nhau,… trong đó ký hợp đồng vay với bên FE Credit là một những hình thức vay mới hiện nay. Tuy nhiên có một câu hỏi đặt ra là vay tiền bên FE Credit nhưng không có khả năng chi trả có bị khởi kiện? Đây là câu hỏi mà cá nhân thực hiện vay tín chấp với bên FE Credit theo hình thức việc ký kết hợp đồng vay tài sản? Vậy theo những quy định của pháp luật thì liệu việc vay bên FE Credit thì có bị kiện nếu như không có khả năng chi trả hay không?
Căn cứ pháp lý:
–
1. Vay tiền bên FE Credit nhưng không có khả năng chi trả có bị khởi kiện?
Ta có hiểu đơn giản FE credit là hình thức vay tín chấp, tồn tại mối quan hệ vay mượn với mức lãi suất nhất định do bên vay đề ra. Tuy nhiên, sẽ có hai trường hợp xảy ra nếu như cá nhân thực hiện vay tiền với bên FE Credit:
+ Một là, người vay không đủ khả năng chi trả nợ, người vay khi đến kỳ hạn thanh lý hợp đồng không có khả năng chi trả nợ và liên hệ với bên FE credit thì bên cho vay sẽ có những phương pháp giải quyết nhất định.
+ Hai là, người vay cố tình không trả nợ, đến kỳ hạn thanh lý
Điều 463,
Khi đã ký kết hợp đồng vay tài sản thì người vay phải có trách nhiệm (nghĩa vụ) trả lại khoản vay đó đúng thời hạn như đã thỏa thuận, nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Và theo như quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành thì nếu như người vay cố tình không trả khoản vay thì sẽ bị khởi tố hình sự với mức khung hình phạt theo tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản. Bởi vì, khi kết kết hợp đồng vay với bên Fe credit thì đã ghi nhận rõ nghĩa vụ trả lại khoản vay, nếu như bên vay không thực hiện đúng nghĩa vụ đó thì bên cho vay có quyền khởi kiện ra Cơ quân Nhà nước có thẩm quyền (
2. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175,
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.
4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là một hành vi đã có từ lâu, có ảnh hưởng đến quyền sở hữu của người có tài sản và gây ảnh hưởng đến tình hình kinh tế, sản xuất kinh doanh.
Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Khách thể của tội phạm là một trong những vấn đề trung tâm của khoa học luật hình sự . Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở thừa nhận tính giai cấp của pháp luật nói chung cũng như luật hình sự nói riêng khẳng định: “ Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại “. Theo luật hình sự Việt Nam những quan hệ xã hội được coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội đã được xác định trong Điều 8, Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.
Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là quyền sở hữu. Có rất nhiều hình thức sở hữu khác nhau như sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể , sở hữu của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, sở hữu tư nhân, … theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Bộ luật dân sự. Chủ thể của quan hệ sở hữu trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bao gồm: Nhà nước , các tổ chức và công dân . Hành vi gây thiệt hại cho các quan hệ sở hữu là hành vi xâm phạm đến các quyền: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu.
Cũng như các hành vi phạm tội khác, để xâm phạm đến quan hệ sở hữu thì người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng phải tác động đến tài sản ( đối tượng vật chất mà nhờ đó quan hệ sở hữu phát sinh và tồn tại ).
Trong luật hình sự, đối tượng tác động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chính là tài sản và nó phải thỏa mãn những đặc điểm:
Tài sản phải được thể hiện dưới dạng vật chất, có giá trị hoặc giá trị sử dụng, các vật này phải là thước đo giá trị sức lao động của con người được kết tỉnh đồng thời phải thỏa mãn được các nhu cầu về vật chất hoặc tinh thần của con người. Những hành vi tác động đến các vật không còn giá trị kinh tế như thuốc đã bị tiêu hủy, hàng hóa không còn giá trị sử dụng không phải là đối tượng tác động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Vật và tiền nói chung luôn luôn là đối tượng tác động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Những giấy tờ thể hiện quyền về tài sản như hóa đơn lĩnh hàng, tín phiếu, séc, thẻ tín dụng … có thể là đối tượng tác động của tội phạm này với điều kiện thông qua đó bất cứ ai cũng có thể nhận được một số tiền hoặc tài sản nhất định. Về nguyên tắc tài sản đó phải mua bán trao đổi được một cách hợp pháp, những tài sản mà Nhà nước cấm tư nhân buôn bán, trao đổi như thuốc phiện, vũ khí, ngoại tệ,… cũng như không phải là đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản:
Đối với tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì chủ thể là người có đủ hai dấu hiệu là có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12, Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sùng 2017.
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản luôn được thực hiện với môi cố ý , vì vậy căn cứ Điều 8, Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sùng 2017. thì chủ thể của tội này ngoài dấu hiệu phải có năng lực trách nhiệm hình sự, xét về tuổi được xác định như sau: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi hành vi phạm tội được quy định tại Điều 175, Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sùng 2017. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về các hành vi phạm tội quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sùng 2017.
Trong trường hợp này chủ thể phải có quyền hạn trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ. Người phạm tội có thể được giao một nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài hoặc chỉ trong một thời gian nhất định. Người phạm tội đã lợi dụng , lạm dụng quyền hạn gây thiệt hại về lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, chủ thể đã sử dụng chức vụ, quyền hạn như một phương tiện để dễ dàng tiếp cận tài sản sở hữu của người bị hại để thực hiện hành vi phạm tội.
Mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản:
Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mang ba đặc điểm hành vi gây thiệt hại về vật chất cho chủ sở hữu , nguy hiểm cho xã hội và hành vi đã được tính toán cân nhắc là hoạt động có ý thức và có ý chí của chủ thể, được thực hiện dưới hình thức hành động phạm tội hành vi đã vi phạm vào Điều 175, Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sùng 2017 ( đó là hành vi trái pháp luật hình sự ). Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản rất đa dạng được quy định trong Điều 175, Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sùng 2017 như sau:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng …
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.”
Như vậy, đặc điểm hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được thể hiện trước hết ở dấu hiệu người phạm tội đã nhận được tài sản một cách hợp pháp. Căn cứ của việc nhận tài sản là hợp đồng dân sự, kinh tế như: hợp đồng vay, mượn, thuê tài sản hoặc các hình thức hợp đồng khác.
Giao dịch hợp pháp, ngay thẳng là giao dịch luôn có sự phù hợp giữa ý chỉ và bày tỏ ý chí. Các bên tham gia giao dịch phải có năng lực hành vi dân sự. Mục đích và nội dung giao dịch không trái pháp luật và đạo đức xã hội, người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. Hình thức giao dịch phù hợp với các quy định của pháp luật. Thông qua các giao dịch đó phát sinh các quyền và nghĩa vụ.
Hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có thể biểu hiện qua các thủ đoạn như: gian dối, bỏ trốn, đến thời hạn trả dù có đủ điều kiện trẻ nhưng cố tình không trả hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản cho chủ sở hữu.
Thủ đoạn gian dối thường gặp trong thực tế như giả tạo bị mất hoặc đánh tráo tài sản , rút bớt tài sản khiến sản phẩm được làm ra không có đầy đủ đặc tính về số lượng , chất lượng như yêu cầu của hợp đồng, xóa dấu tích việc nợ, hủy bỏ các tài liệu chứng cứ chứng minh nghĩa vụ thanh toán như giấy vay nợ, các cam kết.
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là tội có cấu thành vật chất, tức hậu quả thiệt hại về tài sản do hành vi phạm tội gây ra là dấu hiệu bắt buộc. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi lạm dụng tín nhiệm gây ra không được phản ánh một cách trực tiếp mà được phản ánh thông qua đối tượng tác động của tội phạm, tài sản. Ở đây, quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ đã bị tội phạm xâm hại chính là quan hệ sở hữu.
Hậu quả của hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là việc chiếm đoạt được tài sản của chủ sở hữu đã giao cho mình hoặc không còn khả năng trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Theo quy định tại Điều 175, Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sùng 2017, chỉ xử lý hình lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 4.000.000đ hoặc dưới 4.000.000đ nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc các tội cưới tài sản , tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản , tội cưỡng đoạt tài sản , tội cướp giật tài sản , tội công nhiên chiếm đoạt tài sản , tội trộm cắp tài sản , tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản , tội sử dụng mạng máy tính,….là phương tiện kiếm sống chính sách của bị hại và gia đình họ mới cầu thành tội này.
Mặt chủ quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản:
Mặt chủ quan của tội phạm nói chung và của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng là những diễn biến tâm lý bên trong của tội phạm, bao gồm: lỗi, động cơ và mục đích phạm tội. Lỗi của người có hành vi chiếm đoạt là lỗi cố ý trực tiếp.
Trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản , động cơ là vì vụ lợi. Nhưng động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, mục đích phạm tội là nhằm chiếm đoạt được tài sản. Tuy nhiên, mục đích của tội phạm cũng không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản vì bản thân hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội này đã bao hàm mục đích phạm tội.
Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, động cơ và mục đích phạm tội không có ý nghĩa trong việc xác định tội danh, chúng chỉ được xem xét trong việc định khung hình phạt và lượng hình.