Gia đình tôi bắt giữ người đã hiếp dâm em gái tôi nhưng không hiểu sao người đó được thả về. Gia đình tôi hỏi thì được trả lời rằng đã được phía gia đình bên kia bảo lãnh? Vậy người đó có được bảo lãnh không?
Tóm tắt câu hỏi:
Gia đình tôi bắt giữ người đã hiếp dâm em gái tôi lên chính quyền địa phương. Hiện tại đã có bằng chứng chứng minh tội của người đó. Nhưng không hiểu sao người đó được thả về .Gia đình tôi hỏi chính quyền thì được trả lời rằng đã được phía gia đình bên kia bảo lãnh .Vậy cho tôi hỏi gia đình phía bên kia có được quyền bảo lãnh hay không?
Luật sư tư vấn:
Tại Điều 92 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về điều kiện và thủ tục bảo lĩnh (bảo lãnh) như sau:
“1. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.
2. Cá nhân có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ. Trong trường hợp này thì ít nhất phải có hai người. Tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức của mình. Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án. Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc nhận bảo lĩnh.
3. Những người quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có quyền ra quyết định về việc bảo lĩnh.
Luật sư
4. Cá nhân nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo phải là người có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Việc bảo lĩnh phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc. Đối với tổ chức nhận bảo lĩnh thì việc bảo lĩnh phải có xác nhận của người đứng đầu tổ chức.
5. Cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan và trong trường hợp này bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác”.
Căn cứ theo quy định này, nếu phía gia đình của người bị bắt tạm giam đáp ứng được những điều kiện quy định tại khoản 1, 2, 4 của điều luật này thì gia đình họ có thể bảo lãnh cho người đang bị tạm giam được tại ngoại. Tuy nhiên, việc người đó được tại ngoại không đồng nghĩa với việc người đó không phạm tội. Mặc dù, người đó được tại ngoại nhưng cơ quan điều tra vẫn tiến hành các hoạt động điều tra như bình thường.
Mục lục bài viết
1. Biện pháp ngăn chặn tạm giam trong tố tụng hình sự
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong hệ thống các biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Trong quá trình tiến hành tố tụng, để đảm bảo cho việc phát hiện, tìm ra kẻ phạm tội, xác định tội phạm không để lọt kẻ phạm tội và phục vụ công tác xét xử người phạm tội được chính xác, nghiêm minh, các cơ quan và những người có thẩm quyền theo pháp luật quy định áp dụng biện pháp tạm giam theo quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự.
Tạm giam là việc thể hiện sự bắt buộc của nhà nước đối với bị cán bị cáo, sự bắt buộc đó thể hiện ở chỗ biện pháp tạm giam được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước, do các cơ quan có chức năng thẩm quyền thực hiện.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam 2003, hệ thống các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự bao gồm 6 biện pháp: bắt, tạm giam, tạm giam , cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo. Trong số các biện pháp nêu trên tạm giam là biện pháp mang tính nghiêm khắc nhất. Xung quanh khái niệm về biện pháp tạm giam hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau, mỗi quan điểm nhìn nhận tạm giam dưới một góc độ khác nhau nhất định, nhưng căn cứ vào Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 đưa ra khái niệm về biện pháp tạm giam: “ Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội” .
Thực tế việc tạm giam làm hạn chế đi một số quyền công dân của người bị tạm giam, nhưng không phải là bị Luật pháp tước bỏ hết các quyền công dân của người bị tạm giam mà người bị tạm giam vẫn còn bị tước bỏ một số quyền theo luật định của người bị tạm giam chỉ dẫn ra trong một thời gian nhất định do các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành theo luật định.
Khi áp dụng biện pháp tạm giam, mục đích là để ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội và ngăn chặn tội phạm có thể xảy ra, phục vụ cho việc đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả cao. Là một biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, nhưng tạm giam không phải là hình phạt tù vì hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do Toà áp dụng không chỉ nhằm mục đích trừng trị người phạm tội mà còn nhằm cải tạo trở thành con người tốt có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống XHCN, ngăn ngừa họ phạm tội với hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, góp phần đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.
Tạm giam cũng khác với “giam giữ hành chính” là một biện pháp phạt đối với người vi phạm hành chính. Các cấp thẩm quyền áp dụng biện pháp giam giữ hành chính để nhằm giáo dục họ về ý thức tuân thủ pháp luật chứ không nhằm ngăn chặn tội phạm.
Từ đó, tạm giao và tạm giữ đều là biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự nhưng tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc hơn tạm giữ. Thời gian tạm giam dài hơn thời gian tạm giữ và cũng khác nhau về đối tượng. Đối tượng của biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo : Còn đối tượng của biện pháp tạm giữ là người chưa bị khởi tố, họ bị bắt tạm giữ hành chính, tạm giữ trong những trường hợp khẩn cấp hay phạm tội quả tang
2. Quy định về biện pháp ngăn chặn tạm giam trong Bộ luật Tố tụng hình sự
Một số quy định về biện pháp ngăn chặn tạm giam trong Bộ luật Tố tụng hình sự:
1. Căn cứ áp dụng
Điều 79 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn (BPNC) nói chung. “Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật này có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm”.
Như vậy, BLTTHS chưa có quy định căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam riêng biệt, tuy nhiên qua khái niệm trên ta có thể hiểu có các căn cứ sau:
– Khi có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
– Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội. Để nhận định bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội phải dựa vào nhiều tình tiết và xem xét đánh giá một cách tổng hợp
– Để bảo đảm thi hành án Công tác thi hành án thực sự là vấn đề quan trọng.
2. Đối tượng áp dụng.
Khoản 1 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “ Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:
– Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng
– Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm mà có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội”
Theo quy định trên thì đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam (BPTG) chỉ có thể là bị can và bị cáo. Tuy nhiên, không phải tất cả bị can, bị cáo đều bị áp dụng biện pháp tạm giam, mà chỉ áp dụng với họ trong hai trường hợp sau:
-
Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng.
-
Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và
+ Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể trốn:
+ Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử:
+ Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội:
BLTTHS quy định một số trường hợp không áp dụng biện pháp tạm giam , thể hiện tinh thần nhân đạo tôn trọng quyền con người, bảo vệ quyền trẻ em,các trường hợp đó là: Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang thời kỳ nuôi con dưới 36 tháng tuổi; người già yếu, người bị bệnh nặng. Những trường hợp trên phải có thêm một điều kiện khác đó là có nơi cư trú rõ ràng.
3. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam.
Căn cứ Điều 80 BLTTHS 2003 thì những người có thẩm quyền ra lệnh bắt tạm giam bao gồm:
-Viện trưởng, phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC), Viện kiểm sát quân sự các cấp;
-Chánh án, Phó chánh án tòa án nhân dân và Tòa án cấp quân sự các cấp;
-Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử;
-Thủ trưởng, Phó thủ trương Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;
Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện Kiểm sát cùng cấp phế chuẩn trước khi thi hành.
4. Thủ tục áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Việc tạm giam phải có lệnh viết của người có thẩm quyền ghi rõ ngày, tháng, năm; họ tên chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị tạm giam; lí do tạm giam, thời hạn tạm giam và giao cho người bị tạm giam một bản.
Cơ quan đã ra lệnh tạm giam phải thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết để gia đình họ cũng như các cơ quan, tổ chức biết được sự việc và không phải tiến hành những thủ tục tìm kiếm không cần thiết, gây tốn kém.
5. Thời hạn tạm giam.
Thời hạn tạm giam bị can, bị cáo được quy định theo những căn cứ khác nhau phụ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.Theo BLTTHS 2003 thì tạm giam được áp dụng trong các giai đoạn: Điều tra, truy tố, xét xử:
+ Tạm giam để điều tra
Được quy định tại Điều 71 BLTTHS. Thời hạn tam giam để điểu tra đối với tội ít nghiệm trọng (kể cả trường hợp đã gia hạn) là 3 tháng. Riêng đối với tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm anh ninh quốc gia thì trong trường hợp cần thiết toàn bộ thời hạn tạm giam (kể cả những lần gia hạn) là có thể kéo dài hơn nhưng phải do viện trưởng VKSNDTC quyết định. Trong khi tạm giam để điều tra xét thấy không nhất thiết tạm giam thì cơ quan điều tra phải đề nghị VKS hủy bỏ tạm giam và trả tự do cho người đó hoặc áp dụng BPNC khác. Khi đã hết thời hạn tam giam thì phải trả tự do hoặc áp dụng biện pháp khác nếu thấy cần thiết.
+ Thời hạn tạm giam để truy tố
VKS có quyền quyết định việc áp dụng BPNC tạm giam sau khi nhận hồ sơ vụ án. Trong trường hợp BPNC tạm giam để điều tra đã hết, nếu xét thấy cần phải tiếp tục tạm giam bị can để hoàn thành bản cáo trạng thì VTVKS có thể gia hạn tạm giam không quá mười năm ngày; trường hợp cần thiết VTVKS có thể gia hạn thêm nhưng cũng không được quá mười năm ngày. Thời hạn tạm giam để hoàn thành bản cáo trạng nhiều nhất là 30 ngày (kể cả thời hạn đã gia hạn thêm).
+ Thời hạn tạm giam để xét xử
Không quá 45 ngày đối với tội ít nghiêm trọng, 3 tháng đối với tội nghiêm trọng. Đối với bị can đang bị tạm giam mà tòa án cấp sơ thẩm thấy cần tiếp tục tạm giam để xét xử thì dù thời hạn tạm giam theo lệnh cũ còn hay hết, TA vẫn phải ra lệnh tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì TA ra lệnh tam giam cho đến khi kết thúc phiên tòa. Đối với những vụ án phức tạp cần tiếp tục tạm giam bị cáo thì chánh án có thể gia hạn thêm thời hạn tạm giam nhưng cũng không được quá 30 ngày. Những vụ án đặc biệt nghiêm trọng do Tòa hình sự TANDTC hoặc tòa quân sự trung ương xét xử theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm thì thời hạn tạm giam là 3 tháng; trong trường hợp cần thiết Chánh án TANDTC có thể gia hạn thêm 1 tháng.
3. Bị tạm giam vì phạm ba tội có được tại ngoại không?
Tóm tắt câu hỏi:
Chào Luật sư ! Tôi có một thắc mắc cần Luật sư tư vấn đó là khi bị phát hiện 3 tội danh: Giao cấu với trẻ em, Cưỡng đoạt tài sản và Cố ý gây thương tích. Trong quá trình điều tra đối tượng đang bị tạm giam nhưng chỉ sau 4 ngày thì đối tượng đã được tại ngoại thì điều này có thể hay không? Mong luật sư giải đáp thắc mắc cho tôi, tôi xin chân thành cảm ơn.
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Luật sư tư vấn:
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 93 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì việc đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập. Để cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm thì phải đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại Khoản 1, Điều 3, Thông tư liên tịch số 17/2013/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC (Thông tư số 17) hướng dẫn về việc đặt tiền để bảo đảm. Cụ thể như sau:
– Bị can, bị cáo phạm tội lần đầu; có nơi cư trú rõ ràng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.
– Bị can, bị cáo có khả năng về tài chính để đặt bảo đảm theo quy định. Đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần mà không có hoặc không đủ tiền để đặt bảo đảm thì xem xét đến khả năng tài chính của người đại diện hợp pháp của họ.
– Có căn cứ xác định, sau khi được tại ngoại, bị can, bị cáo sẽ có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng và không tiêu huỷ, che giấu chứng cứ hoặc có hành vi khác cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử.
– Việc cho bị can, bị cáo tại ngoại không gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự;
– Không thuộc một trong các trường hợp:
……
+ Bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người; phạm tội rất nghiêm trọng thuộc loại tội phạm về ma túy, tham nhũng, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; các tội cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản;
+ Bị tạm giam trong trường hợp bị bắt theo lệnh, quyết định truy nã.
+ Bị can, bị cáo là người phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.
+ Bị can, bị cáo là người nghiện ma tuý.
+ Bị can, bị cáo là người tổ chức trong trường hợp phạm tội có tổ chức.
+ Hành vi phạm tội gây dư luận xấu trong nhân dân.
Trong đó theo quy định tại Khoản 3, Điều 8 “Bộ luật hình sự năm 2015” thì:
“….tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”.
Và căn cứ Điều 5 Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP thì được coi là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp khi người phạm tội cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa và đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.
Như vậy một người đang được tạm giam để điều tra có thể được cơ quan có thẩm quyền xem xét cho tại ngoại nếu đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên. Do thông tin bạn cung cấp chưa đầy đủ về nơi cư trú, thái độ của đối tượng mà bạn đề cập, khả năng tài chính của đối tượng, đối tượng bị khởi tố theo khoản nào đối với từng loại tội danh,… nên trong trường hợp này chúng tôi chưa thể đưa nhận định chính xác việc một người bị phát hiện 3 tội danh: Giao cấu với trẻ em, Cưỡng đoạt tài sản và Cố ý gây thương tích chỉ sau 4 ngày tạm giam thì đối tượng đã được tại ngoại thì điều này có đúng hay không. Do đó để giải đáp thắc mắc này bạn cần đối chiếu các điều kiện hiện tại của đối tượng mà bạn nhắc tới có thỏa mãn các điều kiện để được xem xét cho tại ngoại và không thuộc các trường hợp không được áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm nêu trên hay không. Trong trường hợp đối tượng này đáp ứng đủ các điều kiện luật định thì họ hoàn toàn có thể được tại ngoại thay thế việc tạm giam khi họ thực hiện các thủ tục cần thiết. Ngược lại, người này vẫn phải tiếp tục phải tạm giam để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình điều tra giải quyết vụ án.
4. Thủ tục bảo lĩnh cho người bị tạm giam tại ngoại
Tóm tắt câu hỏi:
Gia đình em muốn hỏi luật gia một việc như sau. Em trai và ba người khác bị bắt 04/11/2016 về tội đánh bạc và có hành vi thách thức công an và đang bị tạm giam. Xin hỏi luật gia trong trường hợp em tôi vi phạm lần đầu gia đình muốn làm đơn xin được bảo lãnh về thì có được không và thủ tục xin đươc bảo lãnh như thế nào? Xin trân thành cảm ơn.
Luật sư tư vấn:
Theo quy định tại Điều 92
– Người bảo lĩnh là cá nhân: Cá nhân có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ. Trong trường hợp này thì ít nhất phải có hai người. Cá nhân nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo phải là người có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Việc bảo lĩnh phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc.
– Người bảo lĩnh là tổ chức: Tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức của mình. Đối với tổ chức nhận bảo lĩnh thì việc bảo lĩnh phải có xác nhận của người đứng đầu tổ chức.
Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án. Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc nhận bảo lĩnh.
Luật sư tư vấn thủ tục bảo lĩnh cho người bị tạm giam tại ngoại:1900.6568
Cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan và trong trường hợp này bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Phải được những người quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật tố tụng hình sự 2003, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có quyền ra quyết định về việc bảo lĩnh.
Như vây, nếu gia đình bạn có thành viên đảm bảo được các điều kiện trên thì có thể thực hiện thủ tục bảo lĩnh em bạn, người nhận bảo lĩnh chuẩn bị hồ sơ gồm:
– Đơn xin bảo lĩnh có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã.
– Một khoản tiền nhất định theo yêu cầu cơ quan công an.
– Chứng minh thư nhân dân (bản sao có chứng thực).
– Sổ hộ khẩu gia đình (bản sao có chứng thực).
Sau đó nộp tới cơ quan công an nơi em bạn đang bị tạm giam để được xem xét giải quyết.
5. Xin tại ngoại cho người đang bị tạm giam?
Tóm tắt câu hỏi:
Cho tôi hỏi tôi có đứa con mới thi hành nghĩa vụ quân sự xong về đi làm lái xe và từ nhỏ đến lớn chưa bị một lỗi gì và tại địa phương cũng chưa bao giờ vi phạm gì nay con tôi có đi theo bạn rủ đi có việc và con tôi đi theo đến nơi mới biết đánh nhau và trong lúc lên đến nơi thì sự việc đâ xảy ra rồi và có một người chết mà con tôi chỉ lên và có chở bạn đến thôi camera quay có mặt con tôi và sau đó tôi có đưa con tôi đến cơ quan đầu thú và cơ quan làm việc kêu tôi về để làm việc xong sẽ cho con tôi về và nay con tôi bị giử 15 ngày rồi và tôi có nhận được tin là con tội hiện ở chí hoà buồng 29 khu ah bên cơ quan gởi qua nay cho tôi hơi tôi có thể bảo lãnh con tôi được tại ngoại điều tra không xin cảm ơn.
Luật sư tư vấn:
Theo những thông tin bạn cung cấp, về việc xin tại ngoại cho người đang bị tạm giam theo luật định có hai cách giải quyết như sau:
Thứ nhất, bảo lĩnh
Khoản 2 Điều 121
“Điều 121. Bảo lĩnh
..
2….Cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ và trong trường hợp này thì ít nhất phải có 02 người. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập.”
Vì vậy theo luật định, để bảo lĩnh cần ít nhất hai người thân thích của người bị tạm giam đủ 18 tuổi trở lên làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền địa phương nơi cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi làm việc, học tập về việc có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, có thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý bị can. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án sẽ quyết định việc bảo lĩnh.
Thứ hai, đặt tiền để đảm bảo
Biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam này được quy định tại khoản 1 Điều 122 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Theo đó căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ hoặc người thân thích của họ đặt tiền để bảo đảm.
Theo quy định khoản 3 Điều 121, khoản 2 Điều 122 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, bị can phải làm giấy cam đoan thực hiện những nghĩa vụ sau:
+ Có mặt theo giấy triệu tập trừ trường hợp bất khả kháng hoặc do có trở ngại khách quan
+ Không bỏ trốn, tiếp tục phạm tội
+ Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Khi được tại ngoại để điều tra con bạn cần tuân thủ những nghĩa vụ đã cam đoan, nếu không sẽ bị tạm giam lại.
Do đó, để xin tại ngoại điều tra cho con bạn, tùy vào điều kiện, khả năng của gia đình bạn có thể thực hiện theo một trong hai biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam trên.