Skip to content
 1900.6568

Trụ sở chính: Số 89, phố Tô Vĩnh Diện, phường Khương Đình, thành phố Hà Nội

  • DMCA.com Protection Status
Home

  • Trang chủ
  • Về Luật Dương Gia
  • Lãnh đạo công ty
  • Đội ngũ Luật sư
  • Chi nhánh 3 miền
    • Trụ sở chính tại Hà Nội
    • Chi nhánh tại Đà Nẵng
    • Chi nhánh tại TPHCM
  • Pháp luật
  • Văn bản
  • Giáo dục
  • Bạn cần biết
  • Liên hệ Luật sư
    • Luật sư gọi lại tư vấn
    • Chat Zalo
    • Chat Facebook

Home

Đóng thanh tìm kiếm

  • Trang chủ
  • Đặt câu hỏi
  • Đặt lịch hẹn
  • Gửi báo giá
  • 1900.6568
Trang chủ Văn bản pháp luật

Bản án 31/2021/DS-PT ngày 14/01/2021 về tranh chấp hợp đồng đặt cọc – Tòa án nhân dân Tiền Giang

  • 09/08/202109/08/2021
  • bởi Văn Bản Pháp Luật
  • Văn Bản Pháp Luật
    09/08/2021
    Theo dõi chúng tôi trên Google News
    758087





      Chi tiết văn bản pháp luật - Luật Dương Gia



      Số hiệu31/2021/DS-PT
      Loại văn bảnBản án
      Cơ quanTòa án nhân dân Tiền Giang
      Ngày ban hành14/01/2021
      Người kýChưa xác định
      Ngày hiệu lực 14/01/2021
      Tình trạng Còn hiệu lực


      TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

      BẢN ÁN 31/2021/DS-PT NGÀY 14/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC

      Ngày 14 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 501/2020/TLPT-DS ngày 20 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp “Hợp đồng đặt cọc”.

      Do Bản án dân sự sơ thẩm số 53/2020/DS-ST ngày 09 tháng 09 năm 2020 của Toà án nhân dân thành phố M, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.

      Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 577/2020/QĐ-PT ngày 23 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

      1. Nguyên đơn: Lê Quốc T, sinh năm 1979; Địa chỉ: ấp B, xã P, huyện G, tỉnh Tiền Giang Đại diện ủy quyền: Nguyễn Trần H, sinh năm 1988; (có mặt) Theo giấy ủy quyền công chứng số A ngày 03/11/2020 tại văn phòng công chứng Lâm Thị Minh N.

      Địa chỉ: ấp 4, xã Đ, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

      2. Bị đơn: Võ Thị Thu Th, sinh năm 1979;

      Địa chỉ: số 12 đường H, phường A, thành phố M, tỉnh Tiền Giang. Đại diện ủy quyền: Ông Nguyễn Văn G, sinh năm 1944; (có mặt) Địa chỉ: số 06 R, phường B, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

      Theo giấy ủy quyền công chứng số B tại văn phòng công chứng Nguyễn Anh T.

      3. Người làm chứng:

      1/ Dương Cẩm Đ, sinh năm 1962; (vắng mặt) Địa chỉ: số 142/5 L, phường Y, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

      2/ Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố M Đại diện: anh Đoàn Minh H (có mặt) - Người kháng cáo: Bị đơn Võ Thị Thu Th.

      NỘI DUNG VỤ ÁN

      Theo án sơ thẩm;

      Đại diện ủy quyền của nguyên đơn Lê Quốc T là ông Nguyễn Trần H trình bày:

      Vào ngày 21/10/2019, anh T và chị Th có ký kết hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhà tại địa chỉ số 12 đường H, phường A, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

      Hợp đồng đặt cọc ghi nhận sự thỏa thuận của hai bên như sau:

      Chị Th đồng ý chuyển nhượng cho anh T toàn bộ nhà ở và quyền sử dụng đất mà chị Th đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất số CS do Sở Tài nguyên và Môi trường cấp ngày 14/8/2019. Ghi nhận thửa đất số 343, tờ bản đồ số 19 có diện tích 735,9 m2, mục đích sử dụng là đất ở đô thị tại địa chỉ số 12 đường H, phường A, thành phố M, tỉnh Tiền Giang. Trên đất có sẵn nhà ở có diện tích xây dựng là 207,1 m2, hạng nhà cấp 3, trong nhà có đầy đủ tiện nghi.

      Hai bên thống nhất giá trị chuyển nhượng là 17.800.000.000 đồng (mười bảy tỷ tám trăm triệu đồng), hình thức thanh toán: bên mua đặt cọc trước số tiền là 2.800.000.000 đồng (hai tỷ tám triệu đồng). Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng tại văn phòng công chứng sẽ trả đủ số tiền còn lại là 15.000.000.000 đồng (mười lăm tỷ đồng). Sau khi ký hợp đồng đặt cọc, chị Th đã nhận đủ số tiền là 2.800.000.000 đồng (hai tỷ tám triệu đồng).

      Sau đó, anh T tiến hành thủ tục đo đạc để ký hợp đồng chuyển nhượng. Trong quá trình đo đạc, anh T phát hiện thửa đất số 343 có diện tích đo đạc thực tế là 610,1 m2, không đúng so với diện tích được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi phát hiện có sự chênh lệch diện tích đất nêu trên, anh T đã nhiều lần thương lượng với chị Th để điều chỉnh giá chuyển nhượng nhưng phía chị Th không đồng ý điều chỉnh giá chuyển nhượng và chị Th không đồng ý và đổ lỗi cho người khác, chị Th cũng không đồng ý ký biên bản đo đạc.

      Anh T cho rằng đối tượng giao kết không đúng với thỏa thuận ban đầu, chị Th không có thiện chí thỏa thuận lại nên anh T yêu cầu tuyên bố hợp đồng sang nhượng nhà, đất ngày 21/10/2019 được ký kết giữa chị Võ Thị Thu Th và anh Lê Quốc T vô hiệu. Anh T yêu cầu xác định số tiền 2.800.000.000 đồng (hai tỷ tám trăm triệu đồng) do anh T đặt cọc mua nhà, đất thuộc quyền sở hữu của anh T.

      Anh Lê Quốc T yêu cầu chị Võ Thị Thu Th trả số tiền đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhà ở là 2.800.000.000 đồng (Hai tỷ tám trăm triệu đồng), không yêu cầu phạt cọc, không yêu cầu tính lãi.

      Tại đơn khởi kiện bổ sung và bản tự khai bổ sung ngày 08 tháng 4 năm 2020, anh T yêu cầu tuyên bố hợp đồng sang nhượng nhà, đất ngày 21/10/2019 được ký giữa Võ Thị Thu Th và Lê Quốc T vô hiệu là do đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được. Vì khi giao kết hợp đồng thì bị đơn đã xác định sẽ giao lại cho nguyên đơn đất và nhà ở có diện tích 735,9 m2 tuy nhiên qua đo đạc thực tế thì đất và nhà chỉ có diện tích 610,3 m2 (giảm 125,6 m2).

      * Bị đơn chị Võ Thị Thu Th trình bày:

      Chị Th có thỏa thuận chuyển nhượng thửa đất số 343, tờ bản đồ số 19, diện tích 735,9 m2 và toàn bộ tài sản trên đất cho anh Lê Quốc T. Hai bên thỏa thuận giá chuyển nhượng nhà và đất là 17.800.000.000 đồng (mười bảy tỷ tám trăm triệu đồng). Ngày 21/10/2019, chị Th và anh T có làm hợp đồng sang nhượng nhà và đất. Anh T đặt cọc số tiền 2.800.000.000 đồng (hai tỷ tám trăm triệu đồng) để mua nhà và thửa đất nêu trên. Chị Th đã nhận số tiền 2.800.000.000 đồng (hai tỷ tám trăm triệu đồng) của anh T và chị Th đã viết biên nhận cho anh T. Đến ngày 16/12/2019, anh T thông báo cho chị Th biết diện tích thực tế của thửa đất số 343 giảm 125,6 m2 so với diện tích ghi trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và yêu cầu chị Th giảm giá tiền chuyển nhượng là 15.300.000.000 đồng (mười lăm tỷ ba trăm triệu đồng) nhưng chị Th không đồng ý. Diện tích đất thực tế bị giảm không phải do lỗi của chị Th vì diện tích của chị Th được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 735,9 m2. Nếu anh T không đồng ý mua thửa đất số 343 nữa thì anh T mất tiền cọc. Chị Th không đồng ý trả tiền cọc cho anh T.

      Vào ngày 21/10/2019, chị Th có ký hợp đồng sang nhượng nhà đất số 12 đường H, phường A, thành phố M cho anh Lê Quốc T với giá 17.800.000.000 đồng (mười bảy tỷ tám trăm triệu đồng). Ngay sau khi ký hợp đồng, anh T đã đặt cọc cho chị Th số tiền 2.800.000.000 đồng (hai tỷ tám trăm triệu đồng), số tiền còn lại là 15.000.000.000 đồng (mười lăm tỷ đồng) anh T phải thanh toán cho chị Th sau 60 ngày kể từ ngày ký hợp đồng đặt cọc là ngày 21/10/2019. Tuy nhiên chưa đến thời hạn 60 ngày, anh T đã tự ý chấm dứt việc sang nhượng và kiện chị Th đòi lại số tiền đặt cọc là 2.800.000.000 đồng (hai tỷ tám trăm triệu đồng).

      Anh T kiện đòi số tiền đặt cọc mua nhà trước thời hạn hai bên giao kết hợp đồng, đồng nghĩa với việc anh T từ chối mua nhà, đất tại số 12 đường H, phường A, thành phố M do chị Th đứng tên, sở hữu.

      Chị Th cho rằng chị Th không có lỗi, bên anh T đổi ý không mua nhà, đất thì mất cọc, đối ý không mua nhà đất là lỗi của anh T.

      Chị Th yêu cầu hủy hợp đồng sang nhượng nhà, đất ngày 21/10/2019 được ký giữa Võ Thị Thu Th và Lê Quốc T.

      Chị Th yêu cầu xác định số tiền 2.800.000.000 đồng (Hai tỷ tám trăm triệu đồng) do anh T đặt cọc mua nhà đất thuộc quyền sở hữu của chị Th.

      * Tại bản tự khai ngày 27/12/2019, người làm chứng Dương Cẩm Đ trình bày:

      Ngày 21/10/2019, anh T và chị Th có tiến hành ký hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhà ở tại thửa đất số 343, tờ bản đồ số 19, diện tích là 735,9 m2, mục đích sử dụng là đất ở đô thị tọa lạc tại số 12 đường H, phường A, thành phố M, tỉnh Tiền Giang. Trên phần đất có sẵn nhà ở có diện tích xây dựng là 207,1 m2, hạng nhà cấp 3.

      Hai bên thống nhất giá trị chuyển nhượng là 17.800.000.000 đồng (mười bảy tỷ tám trăm triệu đồng), hình thức thanh toán đặt cọc trước số tiền 2.800.000.000 đồng (hai tỷ tám triệu đồng). Sau khi ký thủ tục chuyển nhượng tại Phòng công chứng sẽ trả đủ số tiền còn lại là 15.000.000.000 đồng (mười lăm tỷ đồng). Khi ký hợp đồng đặt cọc này, anh T và chị Th có nhờ anh làm chứng việc ký hợp đồng đặt cọc. Anh cùng anh T, chị Th và anh Đ cùng ký tên vào hợp đồng đặt cọc ghi nhận việc đặt cọc mua bán nêu trên. Anh cũng chứng kiến việc giao nhận tiền cọc từ anh T cho chị Th.

      Tại bản án dân sự sơ thẩm số 53/2020/DS-ST ngày 09 tháng 09 năm 2020 của Toà án nhân dân thành phố M, tỉnh Tiền Giang đã quyết định áp dụng:

      - Căn cứ vào khoản 3Điều 26, khoản 1 Điều 35, Điều 229 và Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

      - Căn cứ Điều 126, Điều 131, Điều 328 và Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015;

      - Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

      Xử : Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Lê Quốc T.

      Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của chị Võ Thị Thu Th về việc việc yêu cầu hủy hợp đồng sang nhượng nhà, đất ngày 21/10/2019 được ký giữa Võ Thị Thu Th và Lê Quốc T. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của chị Th yêu cầu xác định số tiền 2.800.000.000 đồng (Hai tỷ tám trăm triệu đồng) do anh T đặt cọc mua nhà đất thuộc quyền sở hữu của chị Th.

      Tuyên bố hợp đồng sang nhượng nhà, đất ngày 21/10/2019 được ký giữa Võ Thị Thu Th và Lê Quốc T vô hiệu.

      Buộc chị Võ Thị Thu Th có nghĩa vụ trả cho anh Lê Quốc T số tiền 2.800.000.000 đồng (Hai tỷ tám trăm triệu đồng).

      Kể từ ngày anh Lê Quốc T có đơn yêu cầu thi hành án nếu chị Võ Thị Thu Th không trả số tiền nêu trên, chị Th còn phải trả thêm tiền lãi của số tiền chậm trả theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015.

      Ngày bị đơn 13/9/2020 bị đơn Võ Thị Thu Th có đơn kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét các yêu cầu sau:

      1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

      2. Chấp nhận tòa bộ yêu cầu phản tố của bị đơn.

      3. Hủy quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời về việc cấm xuất cảnh đối với chị Th.

      Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện ủy quyền của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đại diện ủy quyền của bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố và yêu cầu kháng cáo, hai bên đương sự không thỏa thuận được với nhau việc giải quyết vụ án.

      Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung kháng cáo: ngày 21/10/2019 giữa anh T và chị Th ký hợp đồng chuyển nhượng, nhưng nội dung là đặc cọc số tiền 2.800.000.000 đồng, khi giao địch hai bên đương sự tin tưởng vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 14/8/2019, nhưng thực tế kết quả đo đạt ngày 21/11/2019 thì diện tích là 610,3m2, giảm 125,6m2, việc giảm diện tích hai bên đều không có lỗi, căn cứ điều 126 Bộ luật dân sự, án sơ thẩm xử tuyên bố hợp đồng vô hiệu, chị Th trả lại anh T số tiền 2.800.000.000 đồng là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Võ Thị Thu Th, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

      NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

      Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

      [1] Về quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn anh Lê Quốc T khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng sang nhượng nhà, đất ngày 21/10/2019 là vô hiệu yêu cầu nhận lại số tiền đặc cọc là 2.800.000.000 đồng, án sơ thẩm xác định tranh chấp hợp đồng đặt cọc theo Điều 328 Bộ luật dân sự 2015 là có căn cứ.

      [2] Thẩm quyền giải quyết vụ án: bị đơn bà Võ Thị Thu Th cư trú tại phường A, thành phố M, tỉnh Tiền Giang vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố M đúng theo quy định tại khoản 3 Điều 26 và điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

      [3] Đối với người làm chứng Dương Cẩm Đ có đơn xin vắng mặt và đã có lời khai. Căn cứ Điều 229 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với người làm chứng.

      [4] Đơn kháng cáo của bị đơn bà Võ Thị Thu Th đúng quy định tại Điều 272, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

      [5] Về nội dung kháng cáo: bị đơn bà Võ Thị Thu Th kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét các yêu cầu sau:

      1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

      2. Chấp nhận tòa bộ yêu cầu phản tố của bị đơn.

      3. Hủy quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời về việc cấm xuất cảnh đối với chị Th.

      [6] Xét yêu cầu kháng cáo: Căn cứ vào “Hợp đồng sang nhượng nhà đất” được ký giữa anh T và chị Th ngày 21/10/2019, tiêu đề của hợp đồng là hợp đồng sang nhượng nhưng nội dung của hợp đồng lại là hợp đồng đặt cọc là vì trong phần hình thức thanh toán: Bên B (anh T) đặt cọc cho bên A (chị Th) để làm tin là 2.800.000.000 đồng, chị Th đã viết biên nhận nhận số tiền 2.800.000.000 đồng là tiền cọc. Ngoài ra, trong hợp đồng hai bên thỏa thuận sau 60 ngày kể từ ngày ký hợp đồng, anh T và chị Th đến văn phòng công chứng để làm thủ tục theo quy định và anh T trả đủ số tiền còn lại cho chị Th.

      Nên anh T và chị Th đều ý thức được hợp đồng sang nhượng ngày 21/10/20/19 chỉ là hợp đồng đặt cọc và hai bên phải đến văn phòng công chứng để lập thủ tục sang nhượng theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, trong hợp đồng ngày 21/10/2019 đều đã thể hiện rõ trách nhiệm của bên nhận tiền cọc và trách nhiệm của bên đặt cọc. Do đó, Hội đồng xét xử xác định “Hợp đồng sang nhượng nhà đất” được ký giữa anh T và chị Th ngày 21/10/2019 là hợp đồng đặt cọc theo Điều 328 Bộ luật dân sự 2005.

      Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, đại diện ủy quyền của anh T và đại diện ủy quyền của chị Th đều thống nhất trình bày: Trước khi hai bên ký hợp đồng sang nhượng ngày 21/10/2019, anh T có xem nhà và quyền sử dụng đất. Anh T được chị Th cho xem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Anh T ký kết hợp đồng đặt cọc với chị Th để đảm bảo cho giao dịch mua bán nhà và đất tại thửa đất số 343, tờ bản đồ số 19, diện tích 735,9 m2, mục đích anh T mua bán nhà và quyền sử dụng đất là để kinh doanh.

      Tại mục 4 của hợp đồng sang nhượng nhà đất ngày 21/10/2019 cũng đã có quy định lệ phí công chứng trích lục đo đạc do bên B đóng. Do đó sau khi ký hợp đồng đặc cọc anh T đã tiến hành ký hợp đồng đo đạc là đúng theo thỏa thuận, căn cứ vào phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất ngày 22/11/2019 diện tích thực tế của thửa đất số 343 giảm 125,6 m2 so với diện tích được cấp giấy chứng nhận.

      Trong quá trình giải quyết vụ án chị Th cũng như đại diện ủy quyền của chị Th cho rằng thực tế diện tích nhà và đất của chị Th là đúng như trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp. Nhưng chị Th không có căn cứ nào để chứng minh là đất thực tế của chị Th có đúng như diện tích trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp hay không, vì giai đoạn sơ thẩm cũng như phúc thẩm chị Th không đồng ý đo đạc thực tế lại phần đất đang tranh chấp. Tại mục 1 của hợp đồng sang nhượng nhà đất ngày 21/10/2019 đã thể hiện tài sản thỏa thuận sang nhượng là thửa đất số 343, tờ bản đồ số 19, diện tích 735,9 m2. Tại phiên tòa phúc thẩm anh Đoàn Minh H là cán bộ Văn phòng đăng ký đất đai thành phố M đã xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất ngày 22/11/2019 và cho rằng diện tích đất thực tế của thửa đất số 343 khác với diện tích ghi trong giấy chứng nhận quyền sử dụng giảm 125,6 m2 so với diện tích được cấp giấy chứng nhận. Chính bản khai ngày 26/12/2019 chị Th cũng trình bày: “Ngày 16/12/2019, anh T có thông báo cho tôi biết diện tích thực tế của thửa đất số 343 giảm 125,6 m2 so với diện tích ghi trong giấy chứng nhận. Anh T yêu cầu tôi phải giảm giá tiền chuyển nhượng đã thỏa thuận còn 15.300.000 đ (mười lăm tỉ ba trăm triệu đồng). Thì tôi không đồng ý”. Điều này đã thể hiện chị Th cũng đã biết diện tích đất thực tế của chị không đúng như trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

      Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố M có Công văn số 1958/CNVPĐK ngày 14/7/2020 thu hồi Công văn số 1117/CNVPĐK ngày 04/5/2020 vì: “... có một số nội dung chưa phù hợp. Cụ thể là chủ sử dụng đất, các chủ sử dụng giáp ranh không ký tên vào bản dự thảo hồ sơ đo đạc, chỉ giới đường đỏ của đường H và đường Trừ Văn Th có sự thay đổi so với trước đây”. Theo Công văn số 2500/CNVPĐK-HCTH ngày 26/8/2020 cung cấp Quyết định số 13/2018/QĐ-UBND ngày 23/7/2018 có hiệu lực ngày 08/8/2018 quy định phạm vi chỉ giới đường đỏ của đường H và đường Trừ Văn Th từ tim đường ra mỗi bên 08 m.

      Nguồn gốc phần diện tích đất 735,9 m2 là của ông Huỳnh Văn Achuyển nhượng cho ông Võ Quốc H vào ngày 06/11/2018, thời điểm này Quyết định số 13/2018/QĐ-UBND ngày 23/7/2018 có hiệu lực ngày 08/8/2018 quy định phạm vi chỉ giới đường đỏ của đường H và đường Trừ Văn Th từ tim đường ra mỗi bên 08 m. Nhưng khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Võ Quốc H lại không trừ phần phạm vi chỉ giới đường đỏ của đường H và đường Trừ Văn Th mà diện tích vẫn là 735,9 m2. Chị Võ Thị Thu Th được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 14/8/2019 do được hưởng thừa kế từ ông Võ Quốc H. Khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị Th hồ sơ cấp giấy không tiến hành đo đạc lại, không trừ phạm vi chỉ giới đường đỏ của đường H và đường Trừ Văn Th, dẫn đến cấp giấy cho chị Th ngày 14/8/2019 diện tích vẫn là 735,9 m2. Đây là lỗi của cơ quan có thẩm quyền trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, dẫn đến diện tích đất thực tế không đúng với diện tích được cấp trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, dẫn đến chị Th và anh T tin tưởng vào diện tích trong giấy mà giao kết hợp đồng.

      Như vậy, cả anh T và chị Th đều nhầm lẫn diện tích thực tế của thửa đất số 343 tờ bản đồ số 19 là 735,9 m2 và cả hai đều không có lỗi trong việc nhầm lẫn diện tích nêu trên. Mặc dù hợp đồng đặt cọc ngày 21/10/2019 có thỏa thuận: “Sau 60 ngày kể từ ngày hôm nay bên A và bên B đến Phòng công chứng lập thủ tục sang nhượng theo quy định của pháp luật...”. Anh T đã khởi kiện tại Tòa yêu cầu đòi lại tiền cọc trước thời hạn thỏa thuận thực hiện tiếp tục hợp đồng. Căn cứ Điều 126 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.” Do đó, việc anh T khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng sang nhượng nhà đất ngày 21/10/2019 vô hiệu trước khi đến hạn thực hiện hợp đồng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

      Anh T yêu cầu tuyên bố hợp đồng sang nhượng nhà đất ngày 21/10/2019 vô hiệu và yêu cầu chị Th trả lại số tiền cọc là 2.800.000.000 đồng (hai tỷ tám trăm triệu đồng) là có cơ sở. Căn cứ Điều 131 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự quy định: Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Do đó, chị Th phải trả lại cho anh T số tiền 2.800.000.000 đồng (hai tỷ tám trăm triệu đồng). Như đã nhận định, anh T và chị Th đều không có lỗi khi xác lập giao dịch nên không phải bồi thường.

      Như đã phân tích nêu trên, hợp đồng sang nhượng nhà đất ngày 21/10/2019 vô hiệu do nhầm lẫn về diện tích thực tế của thửa đất số 343 nên việc chị Th cho rằng: Anh T kiện đòi số tiền đặt cọc mua nhà trước thời hạn hai bên giao kết hợp đồng, đồng nghĩa với việc anh T từ chối mua nhà, đất tại số số 12 đường H, phường A, thành phố M do chị Th đứng tên, sở hữu là không được Hội đồng xét xử chấp nhận. Do đó, án sơ xét xử chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của chị Th về việc yêu cầu hủy hợp đồng sang nhượng nhà đất ngày 21/10/2019 và không chấp nhận yêu cầu xác định số tiền 2.800.000.000 đồng (hai tỷ tám trăm triệu đồng) thuộc quyền sở hữu của chị Th là có căn cứ.

      Do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị Th đối với yêu cầu xác định số tiền 2.800.000.000 đồng (hai tỷ tám trăm triệu đồng) thuộc quyền sở hữu của chị Th. Xét thấy, cần thiết phải tiếp tục duy trì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời về việc cấp xuất cảnh đối với chị Th là cần thiết cho việc đảm bảo thi hành án. Do đó của bị đơn về việc yêu cầu Hội đồng xét xử hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời là không có căn cứ.

      [7]. Các phần khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên đã phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

      [8]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

      [9]. Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo của các bị đơn không được chấp nhận, nên bị đơn phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm.

      Vì các lẽ trên;

      QUYẾT ĐỊNH

      Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

      - Căn cứ vào khoản 3Điều 26, khoản 1 Điều 35, Điều 229 và Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

      - Căn cứ Điều 126, Điều 131, Điều 328 và Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015;

      - Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UNTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

      Nội dung đang được cập nhật.

      Văn bản gốc đang được cập nhật.

      Mục lục bài viết

            • 0.0.0.1 Văn bản liên quan
      • 1 Được hướng dẫn
      • 2 Bị hủy bỏ
      • 3 Được bổ sung
      • 4 Đình chỉ
      • 5 Bị đình chỉ
      • 6 Bị đinh chỉ 1 phần
      • 7 Bị quy định hết hiệu lực
      • 8 Bị bãi bỏ
      • 9 Được sửa đổi
      • 10 Được đính chính
      • 11 Bị thay thế
      • 12 Được điều chỉnh
      • 13 Được dẫn chiếu
            • 13.0.0.1 Văn bản hiện tại
            • 13.0.0.2 Văn bản có liên quan
      • 14 Hướng dẫn
      • 15 Hủy bỏ
      • 16 Bổ sung
      • 17 Đình chỉ 1 phần
      • 18 Quy định hết hiệu lực
      • 19 Bãi bỏ
      • 20 Sửa đổi
      • 21 Đính chính
      • 22 Thay thế
      • 23 Điều chỉnh
      • 24 Dẫn chiếu
          • 24.0.1 Văn bản gốc PDF
          • 24.0.2 Văn bản Tiếng Việt
      Văn bản liên quan

      Được hướng dẫn

        Bị hủy bỏ

          Được bổ sung

            Đình chỉ

              Bị đình chỉ

                Bị đinh chỉ 1 phần

                  Bị quy định hết hiệu lực

                    Bị bãi bỏ

                      Được sửa đổi

                        Được đính chính

                          Bị thay thế

                            Được điều chỉnh

                              Được dẫn chiếu

                                Văn bản hiện tại

                                Số hiệu31/2021/DS-PT
                                Loại văn bảnBản án
                                Cơ quanTòa án nhân dân Tiền Giang
                                Ngày ban hành14/01/2021
                                Người kýChưa xác định
                                Ngày hiệu lực 14/01/2021
                                Tình trạng Còn hiệu lực

                                Văn bản có liên quan

                                Hướng dẫn

                                  Hủy bỏ

                                    Bổ sung

                                      Đình chỉ 1 phần

                                        Quy định hết hiệu lực

                                          Bãi bỏ

                                            Sửa đổi

                                              Đính chính

                                                Thay thế

                                                  Điều chỉnh

                                                    Dẫn chiếu

                                                      Văn bản gốc PDF

                                                      Đang xử lý

                                                      Văn bản Tiếng Việt

                                                      Đang xử lý






                                                      .

                                                      Duong Gia Facebook Duong Gia Tiktok Duong Gia Youtube Duong Gia Google

                                                        Liên hệ với Luật sư để được hỗ trợ:

                                                      •   Tư vấn pháp luật qua Email
                                                         Tư vấn nhanh với Luật sư
                                                      -
                                                      CÙNG CHUYÊN MỤC
                                                      • Công văn 2357/QLD-KD năm 2025 thực hiện thủ tục hành chính tại Nghị định và Thông tư hướng dẫn Luật Dược do Cục Quản lý Dược ban hành
                                                      • Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 2622:1995 về phòng chống cháy nhà
                                                      • Luật phá sản là gì? Nội dung và mục lục Luật phá sản?
                                                      • Mẫu GCN người vào Đảng trong thời gian tổ chức đảng xem xét kết nạp
                                                      • Nghị định 35-HĐBT năm 1985 về việc sắp xếp lại bộ máy giúp việc Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước do Hội Đồng Bộ Trưởng ban hành
                                                      • Bản án 490/2019/HNGĐ-ST ngày 25/09/2019 về ly hôn  – Tòa án nhân dân Quận 1 – Hồ Chí Minh
                                                      • Bản án 120/2018/HNGĐ-ST ngày 30/10/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình – Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu – Tây Ninh
                                                      • Bản án 122/2017/HSST ngày 16/09/2017 về tội trộm cắp tài sản – Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì – Hà Nội
                                                      • Bản án 45/2019/HS-ST ngày 06/12/2019 về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi – Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam – Bến Tre
                                                      • Bản án 15/2018/HSST ngày 31/01/2018 về tội đánh bạc – Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku – Gia Lai
                                                      • Bản án 190/2018/DS-ST ngày 29/11/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản – Tòa án nhân dân Huyện Chợ Lách – Bến Tre
                                                      • Bản án 34/2017/HSST ngày 09/11/2017 về tội trộm cắp tài sản – Tòa án nhân dân Huyện Hồng Dân – Bạc Liêu
                                                      BÀI VIẾT MỚI NHẤT
                                                      • Tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế xã hội
                                                      • Tội hủy hoại rừng theo Điều 243 Bộ luật hình sự năm 2015
                                                      • Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã
                                                      • Tội thao túng thị trường chứng khoán theo Điều 211 BLHS
                                                      • Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành công cụ chuyển nhượng giả hoặc các giấy tờ có giá giả khác
                                                      • Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh
                                                      • Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai Điều 229 BLHS
                                                      • Công văn 2357/QLD-KD năm 2025 thực hiện thủ tục hành chính tại Nghị định và Thông tư hướng dẫn Luật Dược do Cục Quản lý Dược ban hành
                                                      • Ly hôn thuận tình không cần ra Tòa: Có cách nào không?
                                                      • Phân biệt giữa người làm chứng và người chứng kiến
                                                      • Ly hôn thuận tình có được ủy quyền cho người khác ra Tòa?
                                                      • Ly hôn thuận tình có cần ra xã/phường xin xác nhận không?
                                                      LIÊN KẾT NỘI BỘ
                                                      • Tư vấn pháp luật
                                                      • Tư vấn luật tại TPHCM
                                                      • Tư vấn luật tại Hà Nội
                                                      • Tư vấn luật tại Đà Nẵng
                                                      • Tư vấn pháp luật qua Email
                                                      • Tư vấn pháp luật qua Zalo
                                                      • Tư vấn luật qua Facebook
                                                      • Tư vấn luật ly hôn
                                                      • Tư vấn luật giao thông
                                                      • Tư vấn luật hành chính
                                                      • Tư vấn pháp luật hình sự
                                                      • Tư vấn luật nghĩa vụ quân sự
                                                      • Tư vấn pháp luật thuế
                                                      • Tư vấn pháp luật đấu thầu
                                                      • Tư vấn luật hôn nhân gia đình
                                                      • Tư vấn pháp luật lao động
                                                      • Tư vấn pháp luật dân sự
                                                      • Tư vấn pháp luật đất đai
                                                      • Tư vấn luật doanh nghiệp
                                                      • Tư vấn pháp luật thừa kế
                                                      • Tư vấn pháp luật xây dựng
                                                      • Tư vấn luật bảo hiểm y tế
                                                      • Tư vấn pháp luật đầu tư
                                                      • Tư vấn luật bảo hiểm xã hội
                                                      • Tư vấn luật sở hữu trí tuệ
                                                      LIÊN KẾT NỘI BỘ
                                                      • Tư vấn pháp luật
                                                      • Tư vấn luật tại TPHCM
                                                      • Tư vấn luật tại Hà Nội
                                                      • Tư vấn luật tại Đà Nẵng
                                                      • Tư vấn pháp luật qua Email
                                                      • Tư vấn pháp luật qua Zalo
                                                      • Tư vấn luật qua Facebook
                                                      • Tư vấn luật ly hôn
                                                      • Tư vấn luật giao thông
                                                      • Tư vấn luật hành chính
                                                      • Tư vấn pháp luật hình sự
                                                      • Tư vấn luật nghĩa vụ quân sự
                                                      • Tư vấn pháp luật thuế
                                                      • Tư vấn pháp luật đấu thầu
                                                      • Tư vấn luật hôn nhân gia đình
                                                      • Tư vấn pháp luật lao động
                                                      • Tư vấn pháp luật dân sự
                                                      • Tư vấn pháp luật đất đai
                                                      • Tư vấn luật doanh nghiệp
                                                      • Tư vấn pháp luật thừa kế
                                                      • Tư vấn pháp luật xây dựng
                                                      • Tư vấn luật bảo hiểm y tế
                                                      • Tư vấn pháp luật đầu tư
                                                      • Tư vấn luật bảo hiểm xã hội
                                                      • Tư vấn luật sở hữu trí tuệ
                                                      Dịch vụ luật sư uy tín toàn quốc


                                                      Tìm kiếm

                                                      Duong Gia Logo

                                                      •   Tư vấn pháp luật qua Email
                                                         Tư vấn nhanh với Luật sư

                                                      VĂN PHÒNG MIỀN BẮC:

                                                      Địa chỉ: 89 Tô Vĩnh Diện, phường Khương Đình, thành phố Hà Nội, Việt Nam

                                                       Điện thoại: 1900.6568

                                                       Email: dichvu@luatduonggia.vn

                                                      VĂN PHÒNG MIỀN TRUNG:

                                                      Địa chỉ: 141 Diệp Minh Châu, phường Hoà Xuân, thành phố Đà Nẵng, Việt Nam

                                                       Điện thoại: 1900.6568

                                                       Email: danang@luatduonggia.vn

                                                      VĂN PHÒNG MIỀN NAM:

                                                      Địa chỉ: 227 Nguyễn Thái Bình, phường Tân Sơn Nhất, thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam

                                                       Điện thoại: 1900.6568

                                                        Email: luatsu@luatduonggia.vn

                                                      Bản quyền thuộc về Luật Dương Gia | Nghiêm cấm tái bản khi chưa được sự đồng ý bằng văn bản!

                                                      Chính sách quyền riêng tư của Luật Dương Gia

                                                      • Chatzalo Chat Zalo
                                                      • Chat Facebook Chat Facebook
                                                      • Chỉ đường picachu Chỉ đường
                                                      • location Đặt câu hỏi
                                                      • gọi ngay
                                                        1900.6568
                                                      • Chat Zalo
                                                      Chỉ đường
                                                      Trụ sở chính tại Hà NộiTrụ sở chính tại Hà Nội
                                                      Văn phòng tại Đà NẵngVăn phòng tại Đà Nẵng
                                                      Văn phòng tại TPHCMVăn phòng tại TPHCM
                                                      Gọi luật sư Gọi luật sư Yêu cầu dịch vụ Yêu cầu dịch vụ
                                                      • Gọi ngay
                                                      • Chỉ đường

                                                        • HÀ NỘI
                                                        • ĐÀ NẴNG
                                                        • TP.HCM
                                                      • Đặt câu hỏi
                                                      • Trang chủ