Số hiệu | 114/2020/DS-PT |
Loại văn bản | Bản án |
Cơ quan | Tòa án nhân dân Bắc Giang |
Ngày ban hành | 09/11/2020 |
Người ký | Chưa xác định |
Ngày hiệu lực | 09/11/2020 |
Tình trạng | Còn hiệu lực |
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 114/2020/DS-PT NGÀY 09/11/2020 VỀ KIỆN ĐÒI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN BỊ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN, CÔNG NHẬN QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN
Trong các ngày 06/11/2020 và ngày 09/11/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang mở phiên toà xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 110/DSPT ngày 29/6/2020 về việc “Kiện đòi quyền sử dụng đất; tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế thi hành án; công nhận quyền sở hữu tài sản” do bản án dân sự sơ thẩm số 13/2020/DS- ST ngày 11/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố BG, tỉnh Bắc Giang có kháng cáo, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 126/2020/QĐ- PT ngày 28/7/2020, quyết định hoãn phiên tòa số 131/2020/QĐ- PT ngày 07/8/2020, quyết định hoãn phiên tòa số 145/2020/QĐ-PT ngày 07/9/2020, các quyết định tạm ngừng phiên tòa số 35/2020/QĐ-PT ngày 15/9/2020, số 40/2020/QĐ-PT ngày 15/10/2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Đỗ Văn N, sinh năm 1975 (có mặt);
Địa chỉ: Thôn AB, xã TT, thành phố BG, tỉnh Bắc Giang.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Đỗ Văn N: Luật sư Vũ Trọng B, Luật sư Công ty luật trách nhiệm hữu hạn FC - Đoàn Luật sư tỉnh Bắc Giang.
- Các đồng bị đơn:
1. Ông Ngô Quang B, sinh năm 1957 (có mặt);
2. Bà Đỗ Thị H, sinh năm 1958 (vắng mặt); Đại diện theo ủy quyền của bà Đỗ Thị H là ông Ngô Quang B, sinh năm: 1957 (có mặt).
Cùng địa chỉ: Thôn AB, xã TT, thành phố BG, tỉnh Bắc Giang.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Nguyễn Thị Lan A, sinh năm 1986 (vắng mặt);Đại diện theo ủy quyền của chị Nguyễn Thị Lan A: Anh Ngô Văn T, sinh năm: 1980 (có mặt);
2. Chị Ngô Thị Kim O, sinh năm 1982 (vắng mặt);
Đại diện theo ủy quyền của chị Ngô Thị Kim O: Ông Ngô Quang B, sinh năm:
1957 (có mặt);
3. Chị Ngô Thị Huyền T, sinh năm 1987 (vắng mặt); Đại diện theo ủy quyền của chị Ngô Thị Huyền T: Ông Ngô Quang B, sinh năm: 1957 (có mặt);
Đều cùng địa chỉ: Thôn AB, xã TT, thành phố BG, tỉnh Bắc Giang.
4. Bà Trần Thị V, sinh năm 1975 (vắng mặt); Đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị V: Ông Đỗ Văn N, sinh năm: 1975 (có mặt);
Địa chỉ: Thôn AB, xã TT, thành phố BG, tỉnh Bắc Giang;
5. Bà Ngô Thị L, sinh năm 1961(vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn X, xã TT, thành phố BG, tỉnh Bắc Giang.
Đại diện theo ủy quyền của bà Ngô Thị L: Ông Nguyễn Văn D (vắng mặt);
6. Anh Ngô Văn L, sinh năm 1983 (có mặt);
Địa chỉ: Số nhà 29, đường PT, tổ dân phố số 4, phường TX, thành phố BG, tỉnh Bắc Giang.
Đại diện theo ủy quyền của anh Ngô Văn L: Ông Ngô Quang B, sinh năm: 1957 (có mặt).
7. UBND thành phố BG, tỉnh Bắc Giang do ông Nguyễn Thanh T - Phó trưởng phòng Tài nguyên & Môi trường thành phố BG, tỉnh Bắc Giang đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng (vắng mặt);
8. Chi cục Thi hành án dân sự thành phố BG, tỉnh Bắc Giang do bà Phan Thị Việt H - Chấp hành viên đại diện theo ủy quyền (vắng mặt);
9. UBND huyện YD, tỉnh Bắc Giang do bà Phòng Thị N - Phó trưởng phòng Tài nguyên và môi trường huyện YD đại diện theo ủy quyền (vắng mặt);
10. UBND xã TT, thành phố BG, tỉnh Bắc Giang do ông Giáp Quang C - Chủ tịch UBND xã TT, thành phố BG đại diện theo pháp luật (vắng mặt).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập:
1. Anh Ngô Văn T, sinh năm 1980 (có mặt);
Địa chỉ: Thôn AB, xã TT, thành phố BG, tỉnh Bắc Giang.
2. Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1959 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn X, xã TT, thành phố BG, tỉnh Bắc Giang.
Đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn D: Ông Nguyễn Ngọc Đ, sinh năm 1988 (có mặt);
Địa chỉ: Phòng 4, tầng 12, tòa nhà VT, số 1 TH, phường TL, quận Đ, thành phố Hà Nội.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 23/01/2018 và quá trình tham tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn là ông Đỗ Văn N trình bày:
Vào năm 1995 ông Đỗ Văn N được UBND xã TT giao cho quyền sử dụng 134,6 m2 thuộc thửa đất số 127, tờ bản đồ số 02, ở địa chỉ: Thôn AB, xã TT, thành phố BG, tỉnh Bắc Giang. Từ khi được giao đất (năm 1995) đến nay, do ông Đỗ Văn N không có nhu cầu sử dụng nên ông Đỗ Văn N đã cho vợ chồng ông Ngô Quang B và bà Đỗ Thị H (bà Đỗ Thị H là chị gái ông Đỗ Văn N) quản lý, sử dụng. Quá trình sử dụng đất, năm 1996 vợ chồng ông Ngô Quang B, bà Đỗ Thị H đã xây dựng ngôi nhà cấp 4 trên đất. Ngày 18/9/2006 ông Ngô Quang B đã được UBND huyện YD, tỉnh Bắc Giang cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AE 540322, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H00084/1151QĐ-UBND. Năm 2008 - 2009, gia đình ông Ngô Quang B, bà Đỗ Thị H đã xây dựng ngôi nhà 3 tầng kiên cố trên đất. Việc ông Ngô Quang B, bà Đỗ Thị H được UBND huyện YD cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và việc gia đình ông Ngô Quang B, bà Đỗ Thị H xây dựng nhà ở trên thửa đất này thì ông Đỗ Văn N đều biết nhưng không phản đối cũng như không khiếu nại gì. Việc ông Đỗ Văn N không phản đối, không khiếu nại cũng như không có ý kiến gì là do ông Ngô Quang B, bà Đỗ Thị H có hứa với ông Đỗ Văn N là sẽ mua cho ông Đỗ Văn N một thửa đất khác tương đương với thửa đất này. Ông Đỗ Văn N khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Ngô Quang B và bà Đỗ Thị H trả lại cho ông Đỗ Văn N toàn bộ quyền sử dụng diện tích 134,6m2 đất và tài sản gắn liền với đất, tại thửa đất số 127, tờ bản đồ số 02, địa chỉ thửa đất: Thôn AB, xã TT, thành phố BG, tỉnh Bắc Giang; được UBND huyện YD, tỉnh Bắc Giang cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AE 540322 ngày 18/9/2006, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H00084/1151QĐ-UBND mang tên chủ sử dụng ông Ngô Quang B, ông Đỗ Văn N không yêu cầu ông Ngô Quang B, bà Đỗ Thị H phải bồi thường thiệt hại cho ông.
Ông Đỗ Văn N đồng ý bồi thường cho anh Ngô Văn T 500.000.000 đồng giá trị tài sản của anh Ngô Văn T trên đất.
Ông Đỗ Văn N không đồng ý với yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Văn D về việc yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng diện tích 134,6m2 đất và tài sản gắn liền với đất, tại thửa đất số 127, tờ bản đồ số 02, địa chỉ thửa đất: Thôn AB, xã TT, thành phố BG, tỉnh Bắc Giang, là tài sản hợp pháp của vợ chồng ông Ngô Quang B và bà Đỗ Thị H.
Đồng Bị đơn là ông Ngô Quang B và bà Đỗ Thị H ủy quyền cho ông Ngô Quang B tham gia tố tụng trình bày:
Nguồn gốc diện tích 134,6 m2 đất tại thửa đất số 127 tờ bản đồ số 02 thuộc địa chỉ thôn AB, xã TT, thành phố BG, tỉnh Bắc Giang là của anh Đỗ Văn N được UBND xã TT, huyện YD, tỉnh Bắc Giang giao cho sử dụng vào năm 1995. Nhưng ông Đỗ Văn N không sử dụng mà cho vợ chồng ông Ngô Quang B, bà Đỗ Thị H sử dụng.
Năm 1996 gia đình ông Ngô Quang B mua mảnh đất diện tích 377 m2 liền ngay phía sau của đất ông Đỗ Văn N. Sau khi mua xong, gia đình ông Ngô Quang B đến làm trang trại chăn nuôi lợn, gà và làm một dãy chuồng lợn và 3 gian nhà cấp 4 để ở trên đất của ông Đỗ Văn N. Khi ông Ngô Quang B xây công trình trên đất được sự đồng ý của ông Đỗ Văn N.
Vào năm 2006, UBND huyện YD đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 134,6 m2 thửa số 127 tờ bản đồ số 02 thuộc địa chỉ thôn AB xã TT mang tên ông Ngô Quang B. Khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, UBND xã TT tiến hành lập hồ sơ trình UBND huyện YD công nhận quyền sử dụng đất. Ông không được ký nhận vào hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, còn ông Đỗ Văn N có ký nhận vào hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất này không thì ông Ngô Quang B không nắm được. Khi nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông mới được biết diện tích 134,6m2 đất thuộc quyền sử dụng của ông Đỗ Văn N nhưng không cấp tên người sử dụng là ông Đỗ Văn N mà tên người sử dụng lại là ông Ngô Quang B.
Ngay sau khi nhận được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông Ngô Quang B nhận thấy là việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Ngô Quang B là sai vì không đúng tên chủ sử dụng. Ông Ngô Quang B có thông báo cho vợ chồng ông Đỗ Văn N biết và ông Ngô Quang B đề xuất với vợ chồng ông Đỗ Văn N là ông sẽ hứa mua trả cho ông Đỗ Văn N mảnh đất khác có giá trị tương đương và được sự nhất trí của vợ chồng ông Đỗ Văn N. Do có sự đồng ý của vợ chồng ông Đỗ Văn N nên năm 2008-2009 gia đình ông đã xây dựng lên ngôi nhà 3 tầng kiên cố như hiện nay. Việc xây dựng bằng nguồn tiền của con trai ông là anh Ngô Văn T đi làm nghề lái xe thuê gửi tiền về cho ông xây dựng. Gia đình ông khi đó có 6 nhân khẩu gồm 2 vợ chồng ông và 4 đứa con là Ngô Văn T, Ngô Văn L, Ngô Thị Kim O, Ngô Thị Huyền T. Ngoài anh Ngô Văn T ra thì các thành viên còn lại trong gia đình ông không ai có đóng góp bằng tiền mà chỉ đóng góp bằng công sức dọn dẹp, trông coi, bảo quản. Vợ anh Ngô Văn T là chị Nguyễn Thị Lan A cũng không có đóng góp gì vì khi xây dựng xong nhà vào cuối năm 2009 anh Ngô Văn T mới lấy vợ. Theo ông Ngô Quang B được biết khi đó anh Ngô Văn T xây hết khoảng 600.000.000 đồng. Khi xây không phải xin phép xây dựng vì khi đó đất thuộc xã TT, huyện YD quản lý. Từ năm 2007 đến năm 2011 do gia đình ông Ngô Quang B có nhu cầu vay vốn nên đã mang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thế chấp tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triền nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện YD, tỉnh Bắc Giang để vay vốn. Đến năm 2011 do việc làm ăn của gia đình ông gặp nhiều khó khăn dẫn tới việc không trả được tiền vay ngân hàng khi đến hạn. Ngày 26/11/2011, ông có vay của ông Nguyễn Văn D tiền để giải quyết công việc. Việc ông Ngô Quang B vay tiền của ông Nguyễn Văn D đã được ông Ngô Quang B thanh toán đầy đủ cho ông Nguyễn Văn D, nhưng ông Nguyễn Văn D không thừa nhận mà kiện ông ra Tòa án nhân dân thành phố BG. Bản án dân sự số 10/2016/DS- ST ngày 24/6/2016 của Tòa án nhân dân thành phố BG đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn D, buộc ông phải trả cho ông Nguyễn Văn D số tiền nợ gốc là 600.000.000 đồng. Hiện nay Chi cục thi hành án dân sự thành phố BG, tỉnh Bắc Giang đang thi hành bản án này. Do có tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế thi hành án nên việc thi án được hoãn lại để chờ kết quả giải quyết của vụ án này. Vợ chồng ông có hứa sẽ mua mảnh đất khác có giá trị tương để trả cho ông Đỗ Văn N, hiện nay vợ chồng ông có tiền nhưng chưa tìm được chỗ đất nào thích hợp để mua trả cho ông Đỗ Văn N. Nay ông Đỗ Văn N khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông trả lại cho ông Đỗ Văn N diện tích 134,6 m2 đất thuộc thửa số 127 tờ bản đồ số 02, địa chỉ thửa đất: Thôn AB xã TT, thành phố BG. Ông Ngô Quang B và bà Đỗ Thị H đồng ý chấp nhận với toàn bộ yêu cầu kiện đòi quyền sử dụng đất của ông Đỗ Văn N.
Đối với yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Văn D yêu cầu Tòa án công nhận toàn bộ quyền sử dụng diện tích 134,6m2 đất và tài sản gắn liền với đất, tại thửa đất số 127, tờ bản đồ số 02, địa chỉ thửa đất: Thôn AB, xã TT, thành phố BG, tỉnh Bắc Giang, là tài sản hợp pháp của vợ chồng ông Ngô Quang B và bà Đỗ Thị H. Vợ chồng ông không chấp nhận vì quyền sử dụng đất là của ông Đỗ Văn N, toàn bộ tài sản trên đất là của anh Ngô Văn T. Vợ chồng ông có đủ tiền để thực hiện nghĩa vụ thi hành án cho ông Nguyễn Văn D nhưng vợ chồng ông không đồng ý trả vì không đồng ý với quyết định của Bản án dân sự số 10/2016/DS-ST ngày 24/6/2016 của Tòa án nhân dân thành phố BG.
Đối với việc anh Ngô Văn T có yêu cầu độc lập yêu cầu Tòa án công nhận toàn bộ tài sản gắn liền với diện tích 134,6m2 đất là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của anh Ngô Văn T, đồng thời buộc ông Đỗ Văn N phải bồi thường cho anh Ngô Văn T số tiền 500.000.000 đồng giá trị tài sản trên đất. Ông Ngô Quang B, bà Đỗ Thị H đồng ý với toàn bộ yêu cầu độc lập của anh Ngô Văn T.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là ông Nguyễn Văn D do ông Nguyễn Ngọc Đ là đại diện theo ủy quyền trình bày:
Đối với yêu cầu khởi kiện của ông Đỗ Văn N khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Ngô Quang B và bà Đỗ Thị H trả lại cho ông Đỗ Văn N toàn bộ quyền sử dụng diện tích 134,6m2 đất, tại thửa đất số 127, tờ bản đồ số 02, địa chỉ thửa đất: Thôn AB, xã TT, thành phố BG, tỉnh Bắc Giang, được UBND huyện YD, tỉnh Bắc Giang cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AE 540322 ngày 18/9/2006 mang tên ông Ngô Quang B, HKTT: Xã TT, thành phố BG, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H00084/1151QĐ-UBND.Ông Nguyễn Văn D không chấp nhận.
Đối với việc anh Ngô Văn T có yêu cầu độc lập yêu cầu Tòa án công nhận toàn bộ tài sản gắn liền với diện tích 134,6m2 đất là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của anh Ngô Văn T, đồng thời buộc ông Đỗ Văn N phải bồi thường cho anh Ngô Văn T số tiền 500.000.000 đồng giá trị tài sản trên đất, buộc ông Đỗ Văn N phải bồi thường cho anh Ngô Văn T số tiền 500.000.000 đồng giá trị tài sản trên đất. Ông Nguyễn Văn D không chấp nhận toàn bộ yêu cầu độc lập của anh Ngô Văn T.
Căn cứ ông Nguyễn Văn D đưa ra là:
Vào năm 2006 UBND huyện YD, tỉnh Bắc Giang căn cứ vào quá trình sử dụng đất của người sử dụng đất là ông Ngô Quang B và bà Đỗ Thị H là người đang sử dụng ổn định lâu dài và làm nhà trên mảnh đất đó nên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Ngô Quang B, bà Đỗ Thị H. Hiện Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên chủ sử dụng ông Ngô Quang B đang có giá trị sử dụng, chưa bị cơ quan nào hủy bỏ. Quá trình sử dụng đất, ông Ngô Quang B và bà Đỗ Thị H đã nhiều lần đem Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đi thế chấp để vay vốn Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam- Chi nhánh huyện YD, tỉnh Bắc Giang.
Về toàn bộ tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất là: Ngôi nhà 3 tầng và công trình phụ là do chính vợ chồng ông Ngô Quang B xây từ năm 2008 hoàn thành 2009. Việc con ông Ngô Quang B, bà Đỗ Thị H là anh Ngô Văn T cho rằng ngôi nhà 3 tầng và công trình phụ là do anh Ngô Văn T bỏ toàn bộ tiền ra xây dựng là không đúng sự thật. Tại thời thời điểm xây dựng ngôi nhà trên đất là vào năm 2008, anh Ngô Văn T còn trẻ tuổi không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập, các con ông Ngô Quang B là Ngô Thị Huyền T, anh Ngô Văn L, khi đó còn nhỏ tuổi và sống phụ thuộc vào bố mẹ nên không có công sức đóng góp, cháu Ngô Thị Oanh khi đó đã xây dựng gia đình và ở riêng. Tiền xây dựng nhà là do ông Ngô Quang B, bà Đỗ Thị H tích lũy được trong nhiều năm để xây dựng nhà.
Tại phiên tòa, ông Nguyễn Văn D giữ nguyên yêu cầu độc lập, yêu cầu Tòa án công nhận toàn bộ quyền sử dụng diện tích 134,6m2 đất và tài sản gắn liền với đất, tại thửa đất số 127, tờ bản đồ số 02, địa chỉ thửa đất: Thôn AB, xã TT, thành phố BG, tỉnh Bắc Giang, là tài sản hợp pháp của vợ chồng ông Ngô Quang B và bà Đỗ Thị H.
Anh Ngô Văn T là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập trình bày:
Vào thời điểm năm 1995, do nhà ông bà ngoại anh Ngô Văn T (là ông bà thân sinh ra mẹ anh và ông Đỗ Văn N) đông con nên được Nhà nước giao cho quyền sử dụng diện tích 134,6 m2 thửa số 127 tờ bản đồ số 02 thuộc địa chỉ thôn AB xã TT, thành phố BG. Tên người sử dụng ghi trong Biên bản giao đất là ông Đỗ Văn N.
Vào năm 1996 do ông Đỗ Văn N chưa có nhu cầu sử dụng nên ông bà ngoại và ông Đỗ Văn N bảo bố mẹ anh ra mảnh đất đó xây nhà tạm để ở. Sau đó bố mẹ anh xây dựng lên ngôi nhà cấp 4 để ở. Khoảng năm 1997 ông Đỗ Văn N lấy vợ nhưng không ra đất mới ở mà vẫn ở chung với ông bà. Sau khi lấy vợ ông Đỗ Văn N được nhà vợ cho một lô đất ở cùng thôn AB nên vợ chồng ông Đỗ Văn N đã xây nhà ở trên đất của bố mẹ vợ cho và ở từ đó đến nay. Anh Ngô Văn T xác định quyền sử dụng diện tích 134,6m2 thửa số 127 tờ bản đồ số 02 thuộc địa chỉ thôn AB xã TT, thành phố BG) là của ông Đỗ Văn N.
Do có sự đồng ý của vợ chồng ông Đỗ Văn N nên năm 2008-2009 gia đình anh Ngô Văn T đã xây dựng lên ngôi nhà 3 tầng kiên cố như hiện nay. Việc xây dựng bằng nguồn tiền của anh Ngô Văn T đi làm gửi tiền về cho ông Ngô Quang B, bà Đỗ Thị H xây dựng.
Căn cứ anh Ngô Văn T đưa ra là: Anh Ngô Văn T đi làm nghề lái xe từ năm 2005 đến đầu năm 2009 cho anh Khanh, địa chỉ anh Ngô Văn T không nhớ, biển số xe anh Ngô Văn T không nhớ, xe 5 tấn. Mức lương là 7.000.000 đồng/tháng. Ngoài ra ăn uống sinh hoạt là do chủ xe nuôi. Anh Ngô Văn T lái xe một mình không có phụ. Mỗi tháng anh Ngô Văn T để ra được khoảng 5.000.000 đồng. Ngoài ra anh Ngô Văn T vay mượn của một số anh em họ hàng và bạn bè. Ngoài tiền anh Ngô Văn T bỏ ra xây dựng nhà thì trong gia đình anh Ngô Văn T không có ai bỏ tiền ra xây dựng cùng với anh Ngô Văn T. Bố mẹ anh Ngô Văn T không phải bỏ ra đồng nào để xây dựng. Việc chuyển gửi tiền cho ông Ngô Quang B xây nhà thì anh Ngô Văn T không có ghi chép hay ký nhận. Việc thuê thợ xây dựng anh không có hợp đồng. Mua bán vật tư anh không có hợp đồng, không có lưu giữ hóa đơn mua bán, không có sổ sách theo dõi thu, chi. Giữa anh Ngô Văn T và các thành viên còn lại trong gia đình anh không có văn bản thỏa thuận về việc tài sản trên đất là tài sản riêng của anh. Anh Ngô Văn T cũng không đề nghị Tòa án phân chia tài sản chung mà anh chỉ yêu cầu ông Đỗ Văn N bồi thường giá trị tài sản trên đất cho anh vì anh xác định tài sản này là tài sản riêng của anh.
Nay ông Đỗ Văn N yêu cầu gia đình anh phải trả lại cho ông Đỗ Văn N quyền sử dụng 134,6 m2 đất, anh Ngô Văn T đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Đỗ Văn N và đồng ý giao toàn bộ tài sản trên đất cho ông Đỗ Văn N quản lý sử dụng. Nhưng ông Đỗ Văn N có nghĩa vụ bồi thường cho anh Ngô Văn T toàn bộ giá trị tài sản trên đất. Theo như kết quả của hội đồng định giá đã định giá toàn bộ tài sản trên đất có giá trị 641.366.000 đồng. Nhưng anh Ngô Văn T không yêu cầu ông Đỗ Văn N bồi thường cho anh cả số tiền 641.366.000 đồng, mà anh Ngô Văn T chỉ yêu cầu ông Đỗ Văn N bồi thường cho anh tổng cộng 500.000.000 đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Ngô Văn L, chị Ngô Thị Kim O, chị Ngô Thị Huyền T đều do ông Ngô Quang B là đại diện theo ủy quyền trình bày:
Anh Ngô Văn L, chị Ngô Thị Huyền T, chị Ngô Thị Kim O đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Đỗ Văn N và yêu cầu độc lập của anh Ngô Văn T, không đồng ý với yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Văn D.
Toàn bộ tài sản là ngôi nhà 3 tầng và công trình phụ trên đất được xây dựng năm 2009 là do một mình anh Ngô Văn T bỏ ra xây dựng, tất cả các thành viên còn lại trong gia đình không ai đóng góp đồng nào để xây dựng. Anh Ngô Văn L, chị Ngô Thị Huyền T, chị Ngô Thị Kim O không yêu cầu gì đối với tài sản nhà đất này vì các anh chị xác định không có đóng góp gì. Đề nghị Tòa án tuyên giao toàn bộ nhà đất cho ông Đỗ Văn N và buộc ông Đỗ Văn N phải bồi thường toàn bộ tài sản trên đất cho anh Ngô Văn T.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Ngô Thị L do ông Nguyễn Văn D là đại diện theo ủy quyền có lời khai trình bày:
Bà Ngô Thị L đồng ý với yêu cầu độc lập của chồng bà là ông Nguyễn Văn D, bà Lam không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Đỗ Văn N và yêu cầu độc lập của anh Ngô Văn T. Đề nghị Tòa án công nhận toàn bộ quyền sử dụng diện tích 134,6m2 đất và tài sản gắn liền với đất, tại thửa đất số 127, tờ bản đồ số 02, địa chỉ thửa đất: Thôn AB, xã TT, thành phố BG, tỉnh Bắc Giang, là tài sản hợp pháp của vợ chồng ông Ngô Quang B và bà Đỗ Thị H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Nguyễn Thị Lan A do ông Ngô Văn T là đại diện theo ủy quyền trình bày:
Chị Nguyễn Thị Lan A đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Đỗ Văn N và yêu cầu độc lập của anh Ngô Văn T, không đồng ý với yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Văn D.
Vào năm 2008 - 2009 anh Ngô Văn T xây dựng nhà, khi đó chị Nguyễn Thị Lan A chưa kết hôn với anh Ngô Văn T nên chị không có đóng góp gì. Nay chị Anh không yêu cầu gì đối với tài sản này. Nhất trí với lời trình bày của chồng chị anh Ngô Văn T. Đề nghị Tòa án tuyên giao toàn bộ nhà, đất cho ông Đỗ Văn N quản lý sử dụng và buộc ông Đỗ Văn N phải bồi thường toàn bộ giá trị tài sản trên đất cho anh Ngô Văn T.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Trần Thị V do ông Đỗ Văn N là đại diện theo ủy quyền trình bày:
Bà Trần Thị V đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Đỗ Văn N và yêu cầu độc lập của anh Ngô Văn T, không đồng ý với yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Văn D. Quyền sử dụng điện tích 134,6m2 được Nhà nước giao cho ông Đỗ Văn N từ trước khi bà kết hôn với ông Đỗ Văn N. Việc vợ chồng bà không sử dụng mảnh đất này mà giao cho ông Ngô Quang B, bà Đỗ Thị H sử dụng từ khi được giao đất đến nay là đúng. Đề nghị Tòa án tuyên giao toàn bộ nhà, đất cho ông Đỗ Văn N và ông Đỗ Văn N có trách nhiệm bồi thường toàn bộ tài sản trên đất cho anh Ngô Văn T.
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố BG do bà Phan Thị Việt H - Chấp hành viên là đại diện theo ủy quyền trình bày: Căn cứ Bản án dân sự số 10/2016/DS-ST ngày 24/6/2016 của Tòa án nhân dân thành phố BG; Quyết định đình chỉ số 24/2016/QĐ-PT ngày 21/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang; Căn cứ Quyết định thi hành án chủ động số 48/QĐ-CCTHADS và Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu số 47/QĐ-CCTHADS cùng ngày 12/10/2016 của Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự thành phố BG cho thi hành khoản tiền án phí 28.000.000 đồng; tiền trả nợ ông Nguyễn Văn D, số tiền 600.000.000 đồng và lãi suất chậm thi hành án đối với ông Ngô Quang B và bà Đỗ Thị H. Ngày 09/3/2018 Tòa án nhân dân thành phố BG đã thụ lý vụ án dân sự số 58/2018/TLST-DS về việc“Kiện đòi quyền sử dụng đất; Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự; Công nhận quyền sở hữu tài sản” theo đơn yêu cầu của ông Đỗ Văn N yêu cầu ông Ngô Quang B, bà Đỗ Thị H trả lại quyền sử dụng đất cho ông Đỗ Văn N. Chi cục thi hành án dân sự thành phố BG đã quyết định hoãn việc thi hành bản án dân sự số 10/2016/DS-ST ngày 24/6/2016 của Tòa án nhân dân thành phố BG.
Việc ông Đỗ Văn N khởi kiện đòi tài sản; Anh Ngô Văn T có yêu cầu độc lập yêu cầu ông Đỗ Văn N phải bồi thường cho ông giá trị tài sản trên đất, nhưng anh Ngô Văn T
Mục lục bài viết
- 1 Được hướng dẫn
- 2 Bị hủy bỏ
- 3 Được bổ sung
- 4 Đình chỉ
- 5 Bị đình chỉ
- 6 Bị đinh chỉ 1 phần
- 7 Bị quy định hết hiệu lực
- 8 Bị bãi bỏ
- 9 Được sửa đổi
- 10 Được đính chính
- 11 Bị thay thế
- 12 Được điều chỉnh
- 13 Được dẫn chiếu
- 14 Hướng dẫn
- 15 Hủy bỏ
- 16 Bổ sung
- 17 Đình chỉ 1 phần
- 18 Quy định hết hiệu lực
- 19 Bãi bỏ
- 20 Sửa đổi
- 21 Đính chính
- 22 Thay thế
- 23 Điều chỉnh
- 24 Dẫn chiếu
Văn bản liên quan
Được hướng dẫn
Bị hủy bỏ
Được bổ sung
Đình chỉ
Bị đình chỉ
Bị đinh chỉ 1 phần
Bị quy định hết hiệu lực
Bị bãi bỏ
Được sửa đổi
Được đính chính
Bị thay thế
Được điều chỉnh
Được dẫn chiếu
Văn bản hiện tại
Số hiệu | 114/2020/DS-PT |
Loại văn bản | Bản án |
Cơ quan | Tòa án nhân dân Bắc Giang |
Ngày ban hành | 09/11/2020 |
Người ký | Chưa xác định |
Ngày hiệu lực | 09/11/2020 |
Tình trạng | Còn hiệu lực |
Văn bản có liên quan
Hướng dẫn
Hủy bỏ
Bổ sung
Đình chỉ 1 phần
Quy định hết hiệu lực
Bãi bỏ
Sửa đổi
Đính chính
Thay thế
Điều chỉnh
Dẫn chiếu
Văn bản gốc PDF
Đang xử lý
Văn bản Tiếng Việt
Đang xử lý
.