Uỷ thác tư pháp là yêu cầu bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về việc thực hiện một hoặc một số hoạt động tương trợ tư pháp theo quy định của pháp luật nước có liên quan hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Mục lục bài viết
- 1 1. Ủy thác tư pháp là gì:
- 2 2. Về thẩm quyền áp dụng pháp luật:
- 3 3. Về việc cung cấp thông tin về nhân thân, xác định địa chỉ của đương sự ở nước ngoài:
- 4 4. Các phương thức tống đạt, thông báo văn bản tố tụng của Tòa án cho đương sự ở nước ngoài:
- 5 5. Về chi phí thực hiện hồ sơ ủy thác tư pháp:
- 6 6. Thu thập chứng cứ trong ủy thác tư pháp:
- 7 7. Tống đạt văn bản tố tụng trong ủy thác tư pháp:
1. Ủy thác tư pháp là gì:
Trong quá trình giải quyết vụ việc ly hôn nói riêng mà dân sự nói chung có yếu tố nước ngoài, Tòa án Việt Nam có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài tương trợ tư pháp về dân sự khi cần tiến hành một hoặc một số hoạt động tố tụng dân sự tại nước ngoài, bằng các hình thức khác nhau trong đó cụ thể là UTTP.
UTTP về dân sự là yêu cầu bằng văn bản của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về việc thực hiện một hoặc một số hoạt động tương trợ tư pháp theo quy định của pháp luật nước có liên quan hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. UTTP chính là một hình thức để thực hiện tương trợ tư pháp được thực hiện trên cơ sở yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.
Theo quy định tại Điều 6 Luật Tương trợ tư pháp năm 2007:
“1. Uỷ thác tư pháp là yêu cầu bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về việc thực hiện một hoặc một số hoạt động tương trợ tư pháp theo quy định của pháp luật nước có liên quan hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
2. Tương trợ tư pháp được thực hiện trên cơ sở yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thông qua ủy thác tư pháp.”
Theo quy định tại Điều 13 Luật TTTP năm 2007, thì Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thực hiện tương trợ tư pháp trong các trường hợp sau đây: Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu cho người đang ở nước được yêu cầu; Triệu tập người làm chứng, người giám định ở nước được yêu cầu; Thu thập, cung cấp chứng cứ ở nước được yêu cầu để giải quyết vụ việc dân sự tại Việt Nam; Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Phạm vi tương trợ tư pháp về dân sự giữa Việt Nam và nước ngoài, bao gồm: Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến tương trợ tư pháp về dân sự; Triệu tập người làm chứng, người giám định; Thu thập, cung cấp chứng cứ; Các yêu cầu tương trợ tư pháp khác về dân sự.
Công ước La Hay về tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tự pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại (viết tắt là Công ước tống đạt giấy tờ), là công ước đa phương do Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế soạn thảo và được thông qua vào ngày 15/11/1965 tại phiên họp lần thứ 10 của Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế, có hiệu lực kể từ ngày 10/02/1969. Hiện nay, Công ước tống đạt giấy tờ có 71 quốc gia thành viên từ các nền kinh tế phát triển và đang phát triển với truyền thống pháp luật khác nhau. Việt Nam chính thức gia nhập Công ước Tống đạt về tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại và Công ước chính thức có hiệu lực với Việt Nam vào ngày 01/10/2016.
2. Về thẩm quyền áp dụng pháp luật:
2.1. Trường hợp ly hôn có một bên là công dân Việt Nam:
Nếu cả hai bên sống ở Việt Nam: Trường hợp hai bên đương sự đều cư trú, làm ăn, sinh sống tại Việt Nam, một trong hai bên viết đơn tại Tòa án Việt Nam thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết bởi trường hợp này theo Điều 470 BLTTDS năm 2015 thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam. Như vậy, điều đó có nghĩa là nếu Tòa án nước ngoài thụ lý giải quyết vụ việc trên, bản án của họ sẽ không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
Nếu một bên sống ở Việt Nam: Theo điểm a, phần 2.3, mục II Nghị quyết 01/2003 ngày 16/4/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình: “... Đối với trường hợp người Việt Nam ở nước ngoài kết hôn với người nước ngoài mà việc kết hôn đó được công nhận tại Việt Nam, nay người Việt Nam về nước và người nước ngoài xin ly hôn: a. Trong trường hợp người nước ngoài đang ở nước ngoài xin ly hôn người Việt Nam mà người Việt Nam còn quốc tịch Việt Nam và đang cư trú tại Việt Nam, thì Toà án thụ lý giải quyết...”. Đồng thời tại phần 2.4, mục II Nghị quyết 01/2003 cũng đã hướng dẫn: “Đối với trường hợp công dân Việt Nam ở trong nước xin ly hôn với người nước ngoài đang cư trú ở nước ngoài: Công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, nhưng người nước ngoài đã về nước mà không còn liên hệ với công dân Việt Nam, nay công dân Việt Nam xin ly hôn, thì Toà án thụ lý giải quyết.” Như vậy, khi công dân Việt Nam cư trú ở Việt Nam thì Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết ly hôn. Người nước ngoài có thể là nguyên đơn hoặc bị đơn. Cùng với tinh thần đó, điểm d khoản 1 Điều 469 BLTTDS năm 2015 đã luật hóa quy định trên như sau: Tòa án Việt Nam giải quyết khi “Vụ việc ly hôn mà nguyên đơn hoặc bị đơn là công dân Việt Nam...”, vậy khi một bên sống tại Việt Nam thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết chứ không thuộc thẩm quyền riêng biệt như trường hợp hai bên sống ở Việt Nam.
Nếu cả hai sống ở nước ngoài: Cũng như đã trình bày ở trường hợp một bên sống ở Việt Nam, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết vụ việc ly hôn khi một bên là công dân Việt Nam ngay cả khi cả hai vợ chồng không thường trú ở Việt Nam và không phân biệt ai là nguyên đơn, ai là bị đơn. Tiêu chí để xác định thẩm quyền của Tòa án Việt Nam là một bên trong vụ việc ly hôn có quốc tịch Việt Nam, bất kể họ cư trú tại đâu. Mặc dù BLTTDS không nêu rõ yếu tố “công dân Việt Nam”, nhưng có thể hiểu rằng yếu tố đó cần phải xác định tại thời điểm thụ lý vụ việc để giải quyết. Bởi nếu trước đây họ là công dân Việt Nam, nhưng tại thời điểm thụ lý họ không còn là công dân Việt Nam thì không thể căn cứ vào quy định đó để xác định thẩm quyền.
2.2. Trường hợp ly hôn có hai người không phải là công dân Việt Nam:
Nếu cả hai sống ở Việt Nam: Hai đương sự trong vụ việc ly hôn đều là người nước ngoài, thẩm quyền của Tòa án Việt Nam được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 469 BLTTDS, theo đó Tòa án Việt Nam sẽ thụ lý giải quyết vụ việc ly hôn khi cả hai là người nước ngoài cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam, bởi vì tiêu chí “nơi cư trú của bị đơn” thường được sử dụng để xác định thẩm quyền không phụ thuộc vào nội dung vụ việc.
Nếu một người sống ở Việt Nam: Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014: “Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; quan hệ hôn nhân và gia đình giữa các bên tham gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài. Như vậy, ly hôn giữa hai người không phải là công dân Việt Nam nhưng chỉ có một bên có nơi thường trú tại Việt Nam là quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 469 BLTTDS năm 2015 thì “Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong những trường hợp sau đây: Bị đơn là cá nhân cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam...”. Các vụ việc dân sự ở đây có cả trường hợp ly hôn. Do đó, khi hai bên đương sự là người nước ngoài, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết khi bị đơn cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam.
Nếu cả hai không còn sống ở Việt Nam: Trường hợp đặt ra nếu như Tòa án Việt Nam được yêu cầu giải quyết vụ việc ly hôn khi hai người không phải là công dân Việt Nam và không sống ở Việt Nam. Luật HN&GĐ năm 2014 không đề cập đến vấn đề ly hôn giữa hai người không phải công dân Việt Nam và không bên nào thường trú tại Việt Nam lúc giải quyết ly hôn. Trước đây, BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) cũng có quy định khi hai bên đều là người nước ngoài, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết ly hôn khi bị đơn có tài sản ở Việt Nam, cụ thể điểm b, khoản 2, Điều 410 khi: “Bị đơn là công dân nước ngoài, người không quốc tịch... có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam”. BLTTDS năm 2015 trên cơ sở kế thừa của BLTTDS năm 2004 đã quy định tại điểm c khoản 1 Điều 469 “Bị đơn có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam” là vụ án cũng thuộc thẩm quyền của Tòa án Việt Nam.
2.3. Trường hợp ly hôn có hai bên là công dân Việt Nam:
Trước khi có BLTTDS năm 2004 hệ thống văn bản pháp luật của nước ta không có quy định nào để chứng tỏ rằng Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết vụ việc ly hôn trong hai trường hợp trên. Tuy nhiên, qua thực tiễn xét xử, Tòa án Việt Nam đã thụ lý giải quyết ly hôn khi một bên về Việt Nam ly hôn. Thời điểm BLTTDS năm 2004 có hiệu lực, theo điểm g khoản 2 Điều 410 BLTTDS chỉ cần: “Vụ việc ly hôn mà nguyên đơn hoặc bị đơn là công dân Việt Nam” là Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết. BLTTDS 2015 kế thừa quy định trên của BLTTDS năm 2004, chỉ cần nguyên đơn hoặn bị đơn là công dân Việt Nam thì Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết (điểm c khoản 1 Điều 469).
3. Về việc cung cấp thông tin về nhân thân, xác định địa chỉ của đương sự ở nước ngoài:
Căn cứ theo Điều 473 BLTTDS năm 2015 thì người khởi kiện, người yêu cầu phải ghi đầy đủ họ, tên, địa chỉ, quốc tịch của đương sự ở nước ngoài trong đơn khởi kiện, đơn yêu cầu kèm theo giấy tờ, tài liệu xác thực họ, tên, địa chỉ, quốc tịch của đương sự đó. Trường hợp không ghi đầy đủ họ, tên, địa chỉ, quốc tịch của đương sự ở nước ngoài hoặc thiếu những nội dung trên thì phải bổ sung trong thời hạn do Tòa án ấn định, hết thời hạn đó mà không cung cấp được thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu.
Trường hợp không xác định được địa chỉ của đương sự ở nước ngoài thì người khởi kiện, người yêu cầu có thể yêu cầu Tòa án Việt Nam đề nghị cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài xác định địa chỉ của đương sự hoặc có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú hoặc yêu cầu Tòa án Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài tuyên bố đương sự mất tích hoặc đã chết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc pháp luật nước ngoài hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Trường hợp cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài trả lời cho Tòa án Việt Nam không xác định được địa chỉ của đương sự ở nước ngoài hoặc sau 06 tháng mà không có trả lời thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu.
4. Các phương thức tống đạt, thông báo văn bản tố tụng của Tòa án cho đương sự ở nước ngoài:
Theo Điều 474 BLTTDS năm 2015 và Công văn số 33/TANDTC HTQT ngày 21/02/2017 của Tòa án nhân dân tối cao về việc tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự ở nước ngoài trong các vụ việc dân sự, vụ án hành chính thì Tòa án thực hiện việc tống đạt, thông báo văn bản tố tụng của Tòa án theo
một trong các phương thức sau đây:
– Theo phương thức được quy định tại điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Bao gồm:
Theo Hiệp định song phương
Phạm vi áp dụng: Tòa án thực hiện tống đạt văn bản tố tụng theo kênh chính thức của Điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với nước ngoài khi đương sự có nơi cư trú hoặc có trụ sở tại các nước, vùng lãnh thổ có ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam.
Lưu ý: Liên bang Nga, Ukraina, Trung Quốc, Cộng hòa Séc, Slovakia, Ba Lan, Belarut, Bulgari, Pháp, Hungari, Kazhashtan vừa là thành viên Công ước tống đạt, vừa có ký kết hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự với Việt Nam nên có thể chọn tống đạt theo kênh chính thức của Công ước tống đạt hoặc kênh chính thức của Điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với nước ngoài.
Theo Công tước Tống đạt
Phạm vi áp dụng Công ước: Công ước tống đạt chỉ áp dụng đối với các yêu cầu ủy tác tư pháp tống đạt giấy tờ mà không bao gồm ủy thác tư pháp thu thập chứng cứ... được gửi đến các quốc gia là thành viên Công ước Tống đạt.
Quy trình ủy thác: Được thực hiện theo Kênh chính và các kênh thay thế
– Theo đường ngoại giao đối với đương sự cư trú ở nước mà nước đó và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa cùng là thành viên của điều ước quốc tế.
Phạm vi áp dụng: Trong trường hợp Việt Nam và nước được yêu cầu ủy thác tư pháp chưa ký kết Hiệp định/thỏa thuận tương trợ tư pháp và cũng không đồng thời là thành viên Công ước Tống đạt giấy tờ thì áp dụng theo nguyên tắc “có đi có lại”.
– Theo đường dịch vụ bưu chính đến địa chỉ của đương sự đang cư trú ở nước ngoài với điều kiện pháp luật nước đó đồng ý với phương thức tống đạt này;
Phạm vi áp dụng: Tòa án nhân dân các cấp được thực hiện tống đạt văn | bản tố tụng theo đường bưu chính đã được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 474 BLTTDS năm 2015 hoặc điểm c Khoản 1 Điều 303 LTTHC năm 2015 nếu đương sự là: Công dân Việt Nam cư trú tại các nước không phản đối cách thức tống đạt theo đường bưu chính; Cơ quan, tổ chức nước ngoài có trụ
sở tại các nước không phản đối cách thức tống đạt theo đường bưu chính; Người nước ngoài cư trú tại các nước không phản đối cách thức tống đạt theo đường bưu chính, bao gồm: Công dân của nước không phản đối cách thức tống đạt theo đường bưu chính, người không quốc tịch và công dân nước khác cư trú tại nước đó.
– Theo đường dịch vụ bưu chính đến cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài để tống đạt cho đương sự là công dân Việt Nam ở nước ngoài;
– Đối với cơ quan, tổ chức nước ngoài có văn phòng đại diện, chi nhánh tại Việt Nam thì việc tống đạt có thể được thực hiện qua văn phòng đại diện, chi nhánh của họ tại Việt Nam theo quy định của Bộ luật này;
– Theo đường dịch vụ bưu chính cho người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền tại Việt Nam của đương sự ở nước ngoài.
Các phương thức tống đạt trên được thực hiện theo pháp luật tương trợ tư pháp. Trường hợp các phương thức tống đạt trên thực hiện không có kết quả thì Tòa án tiến hành niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, Tòa án đang giải quyết vụ việc hoặc tại nơi cư trú cuối cùng của đương sự tại Việt Nam trong thời hạn 01 tháng và thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có), Cổng thông tin điện tử của cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; trường hợp cần thiết, Tòa án có thể thông báo qua kênh dành cho người nước ngoài của Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình của trung ương ba lần trong 03 ngày liên tiếp.
5. Về chi phí thực hiện hồ sơ ủy thác tư pháp:
Đối với vụ án ly hôn thì Nguyên đơn phải nộp chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp cả hai thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu một nửa chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài.
Trường hợp Đình chỉ giải quyết vụ án vì: (1) Người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện thì nguyên đơn phải chịu chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài; (2) Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt: nguyên đơn phải chịu chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài; (3) Nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm và được bị đơn đồng ý: nguyên đơn phải chịu chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài; (4) Người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc Viện Kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị: người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải chịu chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài; (5) Người kháng cáo được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt: người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải chịu chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài; (6) Đối với các trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án khác theo quy định của Bộ luật này thì người yêu cầu phải chịu chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài.
6. Thu thập chứng cứ trong ủy thác tư pháp:
Theo Điều 475 BLTTDS năm 2015 thì phương thức thu thập chứng cứ được thực hiện theo phương thức được quy định tại điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, theo đường ngoại giao đối với đương sự cư trú ở nước mà nước đó và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa cùng là thành viên của điều ước quốc tế; hoặc theo đường dịch vụ bưu chính yêu cầu đương sự là công dân Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài gửi giấy tờ, tài liệu, chứng cứ cho Tòa án Việt Nam.
Chủ thể được Tòa án thu thập chứng cứ là đương sự trong vụ án hoặc không phải là đương sự trong vụ án (người làm chứng, người đang quản lý chứng cứ...)
Đối với Hồ sơ ủy thác tư pháp thu thập chứng cứ do Công ước Tống đạt chỉ quy định về tống đạt văn bản nên không có hiệu lực đối với hoạt động thu thập chứng cứ. Trong trường hợp này, Tòa án sử dụng mẫu Văn bản ủy thác tư pháp 02A được ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT–BTP–BNG–TANDTC ngày 19/10/2016 quy định về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự.
7. Tống đạt văn bản tố tụng trong ủy thác tư pháp:
– Trong vụ án hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài thì trong Thông báo về việc thụ lý vụ án phải ghi rõ thời gian mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; thời gian mở phiên tòa, theo thời hạn được quy định tại Điều 176 BLTTDS năm 2015. Cụ thể: Phiên họp hòa giải phải được mở sớm nhất là 06 tháng và chậm nhất là 08 tháng, kể từ ngày ra văn bản thông báo thụ lý vụ án. Ngày mở lại phiên họp hòa giải (nếu có) được ấn định cách ngày mở phiên họp hòa giải chậm nhất là 01 tháng; Phiên tòa phải được mở sớm nhất là 09 tháng và chậm nhất là 12 tháng, kể từ ngày ra văn bản thông báo thụ lý vụ án. Ngày mở lại phiên tòa (nếu có) được ấn định cách ngày mở phiên tòa chậm nhất là 01 tháng, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 477 của Bộ luật này.
Đối với việc dân sự: Phiên họp phải được mở sớm nhất là 06 tháng và chậm nhất là 08 tháng, kể từ ngày ra văn bản thông báo thụ lý việc dân sự. Ngày mở lại phiên họp giải quyết việc dân sự (nếu có) được ấn định cách ngày mở phiên họp lần đầu chậm nhất là 01 tháng.
– Về việc tống đạt bản án, quyết định của Tòa án:
Bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật phải đóng dấu “Án chưa có hiệu lực pháp luật” và phải tống đạt toàn văn bản án, quyết định.
Quyết định kháng nghị, Thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị được tống đạt theo thủ tục ủy thác tư pháp ra nước ngoài phải do cơ quan kháng nghị thực hiện.
Thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị được tống đạt theo thủ tục ủy thác tư pháp ra nước ngoài do Tòa án thực hiện.
– Về việc xử lý kết quả tống đạt văn bản tố tụng của Tòa án cho đương sự ở nước ngoài và kết quả yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thu thập chứng cứ được thực hiện theo quy định tại Điều 477 BLTTDS.