Như chúng ta đã biết, rừng là một hệ sinh thái. Việc bảo vệ và phát triển rừng đóng vai trò vô cùng quan trọng với sự phát triển của đất nước. Trong đó tỷ lệ che phủ rừng là một trong những tiêu chí đánh giá sự thành công của kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng.
Mục lục bài viết
1.Tỷ lệ che phủ rừng là gì?
Căn cứ khoản 5 điều 2 luật Lâm nghiệp năm 2017 tỷ lệ che phủ rừng được hiểu là tỷ lệ phần trăm giữa diện tích rừng so với tổng diện tích đất tự nhiên trên một phạm vi địa lý nhất định. Việc nâng cao tỷ lệ che phủ rừng là một trong những yếu tố được đảng và nhà nước quan tâm và được quy định cụ thể tại các văn bản pháp luật.
Cụ thể tại điều 3 Luật lâm nghiệp năm 2017 nêu rõ:
– Rừng được quản lý bền vững về diện tích và chất lượng, đảm bảo hài hòa các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo tồn đa dạng si phủ sinh học, nâng cao tỷ lệ che phủ rừng và ứng phó với biến đổi khí hậu.
– Xã hội hóa hoạt động lâm nghiệp; bảo đảm hài hòa giữa lợi ích của Nhà nước với lợi ích của chủ rừng, tổ chức, cá nhân hoạt động lâm nghiệp.
– Bảo đảm tổ chức liên kết theo chuỗi từ bảo vệ rừng, phát triển rừng, sử dụng rừng đến chế biến và thương mại lâm sản để nâng cao giá trị rừng.
– Bảo đảm công khai, minh bạch, sự tham gia của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư liên quan trong hoạt động lâm nghiệp.
– Tuân thủ điều ước quốc tế liên quan đến lâm nghiệp mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này hoặc văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam chưa có quy định thì thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế đó.
2. Tỷ lệ che phủ rừng của Việt Nam:
Trong những năm gần đây, việc bảo vệ và phát triển rừng ở nước ta đang có sự tiến triển vượt bậc, trong đó tỷ lệ che phủ rừng của nước ta đạt gần 42% – Đây là một con số cực kỳ ấn tượng bởi bình quân tỷ lệ che phủ rừng của các nước trên thế giới chỉ đạt khoảng 29%.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì tỷ lệ che phủ rừng của nước ta tăng dần qua các năm từ năm 2008 là 38.7% qua quá trình thực hiện công tác bảo vệ và phát triển rừng thì đến năm 2021 tỷ lệ che phủ rừng của nước ta đã đạt khoảng 42%. Cụ thể, sau năm 2021 tỷ lệ che phủ rừng của nước ta hiện tại đạt khoảng 42.02%, tăng 0.01% so với năm 2020.
Đồng thời ngành lâm nghiệp cũng có những kết quả ấn tượng khác như diện tích trồng rừng đạt hơn 277.830 ha. Việc trồng cây phân tán đạt 98.96 triệu cây vượt đạt 8% so với kế hoạch năm và tăng 13% so với cùng kỳ.
Năm 2021 cũng là năm ghi nhận số vụ vi phạm quy định về bảo vệ rừng và diện tích rừng bị thiệt hại đã giảm so với năm 2020. Cụ thể số vụ vi phạm quy định về bảo vệ rừng đã giảm 13% so với cùng kỳ, diện tích rừng bị thiệt hại giảm 852 ha tương ứng 6% so với cùng kỳ.
Trong giai đoạn 2021 – 2023 chiến lược phát triển lâm nghiệp của nước ta sẽ đặt mục tiêu vào việc duy trì tỷ lệ che phủ rừng ổn định trong khoảng từ 42% đến 43%. Phấn đấu vào năm 2030 diện tích rừng sản xuất đạt khoảng 340.000 ha và sẽ tập trung vào rừng tái canh. Chú trọng hơn vào việc bảo tồn và bảo vệ hệ thống rừng đặc dụng, rừng phòng hộ ở miền núi và ven biển. Trồng mới rừng phòng hộ, rừng đặc dụng khoảng 4.000 – 6.000 ha/năm và phấn đấu phục hồi khoảng 150.000 ha rừng.
3. Những hạn chế của việc che phủ rừng của Việt Nam:
Bên cạnh những thành quả đã đạt được thì vẫn còn tồn tại một số mặt hạn chế như sau:
3.1. Rừng sản xuất vẫn chiếm số phần lớn diện tích:
Các chuyên gia cho rằng, mặc dù tỷ lệ che phủ của rừng ở ở nước ta đạt 42% nhưng chất lượng rừng của nước ta lại chưa đảm bảo. Những năm 1945 ở nước ta chủ yếu là rừng tự nhiên nhưng hiện nay trong tổng số hơn 14 triệu ha rừng thì rừng đặc dụng chỉ có 2,15 triệu ha, rừng phòng hộ là 4,6 triệu ha còn diện tích rừng sản xuất vẫn chiếm phần lớn.
Trong những năm gần đây Nhà nước ta đã chú trọng hơn đến vấn đề trồng rừng, trung bình mỗi năm toàn quốc trồng được khoảng 230 nghìn ha nhưng rừng sản xuất chiếm đến 215 nghìn ha.
Dù diện tích rừng trồng tăng nhưng cây trồng hầu hết đều là những cây công nghiệp nhằm mục đích kinh tế nên không không mang tính bền vững, đặc biệt, không có tính đa dạng sinh học và không thể giúp chống mưa lũ, hay trở thành hồ chứa nước ngầm như những cánh rừng nguyên sinh, rừng đặc dụng.
Bà Đỗ Thị Thanh Huyền – Giám đốc, Người sáng lập Trung tâm Bảo tồn thiên nhiên Gaia (thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam) cũng từng chia sẻ về việc từ Bắc vào Nam nước ta có tới 54/63 tỉnh thành có các khu rừng đặc dụng và 59/63 tỉnh có rừng phòng hộ nhưng tỉ lệ và chất lượng rừng tự nhiên không cao.
Ví dụ vườn quốc gia Bến En ở tỉnh Thanh Hóa trước đây từng bị khai thác kiệt quệ hết các cây gỗ, tài nguyên động thực vật. Từ năm 1992, vườn quốc gia Bến En được thành lập, nhà nước bắt đầu thực hiện chương trình về trồng rừng để làm giàu lại khu rừng nhưng đến nay ở Bến En vẫn có khoảng 3.000 ha rừng rất nghèo nàn, chủ yếu chỉ là những cây tre trúc, bụi rậm.
3.2. Phát triển rừng đang chạy theo thành tích:
Như ta đã biết rừng trồng đặc biệt là những diện tích trồng cây công nghiệp nhằm mục đích kinh tế không thể nào bù đắp được các chức năng phòng hộ sinh thái, hạn chế thiên tai mà rừng tự nhiên có thể đem lại. Thực tế, từ tình trạng lũ lụt nghiêm trọng ở nước ta trong những năm gần đây đã chỉ ra những lỗ hổng trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Mặc dù từ năm 2005 đến nay tỷ lệ che phủ rừng ở nước ta vẫn tăng đều qua các năm nhưng thực tế thì phần đa diện tích lại trồng các loại cây công nghiệp phát triển nhanh và có giá trị kinh tế như keo, bạch đàn, cao su,….Nên dù cho diện tích rừng trồng tăng liên tục từ 2,3 triệu ha năm 2005 lên 4,1 triệu ha vào năm 2016 và 4,3 triệu ha vào năm 2019 song phần diện tích tăng thêm này không có tác dụng ngăn chặn thiên tai, lũ lụt, sạt lở vì chất lượng rừng chưa cao.
Việc chỉ chăm chú vào tăng tỷ lệ che phủ rừng mà không đi kèm với cải thiện chất lượng rừng có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường như rừng mất khả năng ngăn chặn thiên tai, lũ lụt; chất lượng rừng không được cải thiện, suy giảm đa dạng hệ sinh thái, tạo cơ hội để những đối tượng xấu chuyển đổi rừng vô tội vạ, biến rừng giàu thành rừng nghèo
Mặc dù chưa có con số thống kê đầy đủ về những hậu quả có thể xảy ra của việc làm suy giảm diện tích rừng đặc dụng và rừng phòng hộ, nhưng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đất sạt lở khi có mưa hoặc lũ lụt là do tình trạng phá rừng để trồng cây công nghiệp, làm nương rẫy, việc trồng rừng thay thế và các dự án sử dụng đất rừng để phát triển kinh tế – xã hội.
Cuối cùng, hai lý do làm giảm sút diện tích rừng tự nhiên là việc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng và khai thác quá mức. Theo thống kê của Tổng cục Lâm nghiệp trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2017 thì diện tích rừng tự nhiên bị mất do bị khai thác trái phép chiếm tỷ lệ 11% và 89% còn lại là do hoạt động chuyển đổi mục đích sử dụng rừng tại các dự án mà phần đa là các dự án phát triển kinh tế. Trong đó, hai khu vực nổi bật xảy ra tình trạng này là khu vực duyên hải miền trung và khu vực Tây Nguyên.
Trên đây là những thông tin về tỷ lệ che phủ rừng và thực trạng tỷ lệ che phủ rừng ở nước ta hiện nay. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì vẫn còn tồn tại những hạn chế cần phải khắc phục. Hy vọng thông qua bài viết này các bạn sẽ có cái nhìn đa chiều hơn về thực trạng rừng và tỷ lệ che phủ của rừng ở Việt Nam hiện nay.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:
– Luật Lâm nghiệp 2017.