Mỗi tác phẩm văn học đều có một hoàn cảnh sáng tác mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Bài viết dưới đây trình bày về Hoàn cảnh sáng tác các tác phẩm văn học hay và đầy đủ nhất giúp các bạn học sinh có cái nhìn toàn diện nhất về chủ đề này. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết dưới đây.
Mục lục bài viết
- 1 1. Hoàn cảnh sáng tác các tác phẩm văn học lớp 12 hay:
- 1.1 1.1. Tuyên ngôn độc lập:
- 1.2 1.2. Tây Tiến:
- 1.3 1.3. Việt Bắc:
- 1.4 1.4. Đất nước:
- 1.5 1.5. Đất nước (Nguyễn Đình Thi):
- 1.6 1.6. Tiếng hát con tàu:
- 1.7 1.7. Sóng:
- 1.8 1.8. Vợ chồng A Phủ:
- 1.9 1.9. Vợ nhặt:
- 1.10 1.10. Rừng Xà Nu:
- 1.11 1.11. Những đứa con trong gia đình:
- 1.12 1.12. Chiếc thuyền ngoài xa:
- 1.13 1.13. Hồn trương Ba, da hàng thịt:
- 1.14 1.14. Số phận con người:
- 2 2. Hoàn cảnh sáng tác các tác phẩm văn học lớp 9 hay:
- 2.1 2.1. Chuyện người con gái Nam Xương:
- 2.2 2.2. Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh:
- 2.3 2.3. Cố Hương:
- 2.4 2.4. Hoàng Lê nhất thống chí:
- 2.5 2.5. Truyện Kiều:
- 2.6 2.6. Bài thơ về tiểu đội xe không kính:
- 2.7 2.7. Đoàn thuyền đánh cá:
- 2.8 2.8. Bếp lửa:
- 2.9 2.9. Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ:
- 2.10 2.10. Ánh trăng:
- 2.11 2.11. Làng:
- 2.12 2.12. Lặng lẽ Sapa:
- 2.13 2.13. Chiếc lược ngà:
- 2.14 2.14. Viếng lăng Bác:
- 2.15 2.15. Sang thu:
- 2.16 2.16. Bến quê:
- 2.17 2.17. Những ngôi sao xa xôi:
- 3 3. Hoàn cảnh sáng tác của các tác phẩm thơ hiện đại – Ngữ Văn 9 hay:
1. Hoàn cảnh sáng tác các tác phẩm văn học lớp 12 hay:
1.1. Tuyên ngôn độc lập:
– Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Phát xít Nhật đầu hàng đồng minh. Nhân dân ta giành được chính quyền trên cả nước.
– Ngày 26 tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ
– Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Người thay mặt Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam mới.
1.2. Tây Tiến:
-Tây Tiến là tên gọi của trung đoàn Tây Tiến, được thành lập năm 1947:
Nhiệm vụ: phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở miền Tây Bắc Bộ của Việt Nam. Địa bàn hoạt động rộng: Hòa Bình, Sơn La, miền Tây Thanh Hóa và Sầm Nứa (Lào).
Xuất thân: chủ yếu là người Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên.
– Cuối năm 1948,
– Bài thơ ban đầu có tên là “Nhớ Tây Tiến”. Đến năm 1957, in lại bỏ từ “nhớ”, lấy tên là “Tây Tiến” và in trong tập “Mây đầu ô”
1.3. Việt Bắc:
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7-5-1954), Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hòa bình được lập lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954, các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc, nơi đã che chở, nuôi dưỡng cho cách mạng trong suốt những năm trường kì chống thực dân Pháp trở về Hà Nội.
– Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt: từ chiến tranh sang hòa bình, từ núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, với những người đã từng “chia ngọt sẻ bùi”. Người ra đi không khỏi bâng khuâng thương nhớ; người ở lại cũng không khỏi bịn rịn, trống trải, bùi ngùi…
Nhân sự kiện có tính chất thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu – một cán bộ của Đảng, một nhà thơ lớn của cách mạng đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10-1954. Bài thơ đã có vinh dự được lấy làm tên chung cho cả tập thơ “Việt Bắc”, một đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một tác phẩm xuất sắc của thơ Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.
1.4. Đất nước:
Bài thơ Đất nước được ra đời bắt nguồn từ cảm hứng bất tận là tình yêu quê hương đất nước, tự hào về những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc.
– Hoàn cảnh sáng tác Đất nước: Đoạn trích nằm ở phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng. Tác phẩm đồ sộ này được ông viết ở chiến khu Trị Thiên năm 1971 trong những năm tháng chiến tranh chống Mĩ đầy ác liệt, nhà thơ
– Nội dung khái quát đoạn trích: Tác phẩm là cách khám phá đất nước trên các bình diện khác nhau của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, đặc biệt làm nổi bật lên tư tưởng đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại.
1.5. Đất nước (Nguyễn Đình Thi):
Tác phẩm viết trong khoảng thời gian từ 1948 đến 1955. Bài thơ là sự tổng hợp của những sáng tác Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948), Đêm mít tinh (1949) và Đất nước (1955). Đây là thời gian ông trải nghiệm, trưởng thành cùng Đất Nước trong kháng chiến chống Pháp lần 2.
1.6. Tiếng hát con tàu:
+ Bối cảnh đất nước: Mới hàn gắn xong vết thương chiến tranh, miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây cũng là thời kì đất nước đang hồi sinh mạnh mẽ, cuộc sống mới đang nở hoa, niềm vui cuộc sống nhân dân đang vẫy gọi.
+ Nguồn cảm hứng: Từ chủ trương chính trị của Đảng di dân đi xây dựng vùng kinh tế mới trên vùng núi Tây Bắc (1955 – 1960) đã khơi dậy trong tâm hồn thi sĩ niềm khát khao muốn tìm đến để hòa nhập với cái Ta chung của dân tộc, từ bỏ chốn phồn hoa đô thị để đồng cam cộng khổ với cuộc sống nhân dân và để tìm lại nguồn cảm hứng thi ca đã bị thui chột, bào mòn trong những năm tháng chiến tranh.
1.7. Sóng:
Sóng được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), là một bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh. Bài thơ in trong tập Hoa dọc chiến hào (1968).
1.8. Vợ chồng A Phủ:
– Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là tác phẩm đặc sắc trong tập Truyện Tây Bắc (1953) Đó là kết quả của chuyến đi tham dự chiến dịch giải phóng Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài mà tác giả đã “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với đồng bào dân tộc Tây Bắc trong suốt 8 tháng của năm 1952. Tác giả đã thổ lộ “Đất nước và con người Tây Bắc đã để thương để nhớ cho tôi nhiều, không thể bao giờ quên”.
– Qua hoàn cảnh sáng tác đó giúp cho người đọc không những hiểu thêm mà còn xúc động trước cuộc sống nô lệ đầy tủi nhục của đồng bào dân tộc nghèo miền núi Tây Bắc (trong tác phẩm là Mị và A Phủ) dưới ách thống trị của phong kiến (cha con lí Pá Tra và thực dân) đồng thời hiểu thêm về sức sống tiềm tàng mãnh liệt cũng như con đường mà họ đã đến với Cách mạng.
1.9. Vợ nhặt:
Truyện “Vợ nhặt” có tiền thân từ tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”. Tác phẩm được viết ngay sau cách mạng tháng Tám nhưng còn dang dở và mất bản thảo. Sau hoà bình lập lại (1954) Kim Lân dựa vào phần cốt truyện cũ và viết lại thành truyện “Vợ nhặt”. Tác phẩm được in trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Truyện tái hiện lại bức tranh nạn đói năm 1945. Qua đó, thể hiện tấm lòng cảm thông sâu sắc của nhà văn đối với con người trong nạn đói.
1.10. Rừng Xà Nu:
– Xuất xứ: Truyện ngắn Rừng xà nu đăng lần đầu tiên ở tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung Bộ (Số 2, năm 1965), rồi được tuyển in trong tập truyện và kí Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.
– Hoàn cảnh sáng tác: Vào năm 1965, Mĩ kéo quân ồ ạt vào miền Nam với chiến dịch càn quét và diệt tận gốc Việt cộng. Tháng 3/1965, chúng đổ quân vào bãi biển Chu Lai bắt đầu cuộc chiến tranh Cục bộ. Trong tình thế căng thẳng, “ngàn cân treo sợi tóc” ấy, nhà văn Nguyên Ngọc đã sáng tác truyện ngắn Rừng xà nu như một hình thức cổ vũ, động viên tinh thần nhân dân đứng lên chống giặc ngoại xâm, bảo vệ vững chắc nền độc lập, tự do cho dân tộc đầy hữu hiệu. Đây cũng là tác phẩm khẳng định tinh thần dũng cảm, bất khuất, kiên cường của đồng bào Tây Nguyên anh hùng nói riêng và toàn thể dân tộc Việt Nam nói chung trong hoàn cảnh lúc bấy giờ.
1.11. Những đứa con trong gia đình:
Hoàn cảnh chung
“Những đứa con trong gia đình” của nhà văn Nguyễn Thi ra đời vào những năm mà cuộc chiến tranh chống đế quốc Mĩ và tay sai bước vào giai đoạn gay go, ác liệt. Phần lý tưởng lớn nhất của thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ là dâng hiến cuộc đời và tuổi thanh xuân cho sự nghiệp cứu nước vĩ đại của dân tộc. Trong những năm tháng tàn khốc, đau thương ấy càng mất mát thì con người Nam Bộ lại càng vùng lên chiến đấu dũng cảm. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, là tinh thần căm thù giặc sâu sắc, là phẩm chất kiên cường của miền Nam đã khơi nguồn cảm hứng để Nguyễn Thi viết lên thiên truyện ngắn này.
Hoàn cảnh riêng
Nguyễn Thi là nhà văn của người nông dân Nam Bộ, những con người hồn nhiên bộc trực, yêu đời, căm thù ngùn ngụt đối với quân cướp nước. “Những đứa con trong gia đình” là một trong những truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Thi. Tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” được hoàn thành vào tháng 2 năm 1966 trong những ngày chiến đấu chống Mĩ ác liệt. Khi nhà văn công tác ở tạp chí “Văn nghệ quân giải phóng”.
1.12. Chiếc thuyền ngoài xa:
“Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu được sáng tác vào tháng 8/1983, lúc đầu được in trong tập “Bến quê”, sau đó có vinh dự được nhà văn dùng để đặt tên cho cả tập truyện ngắn, xuất bản năm 1987. Năm 1983, đó là một thời điểm khá đặc biệt khi cuộc chiến tranh chống Mĩ và tay sai đã kết thúc thắng lợi, chúng ta trở về muôn mặt của đời thường. Và cũng trong thời điểm này, cả dân tộc đang bước vào giai đoạn đổi mới, cho nên cuộc sống có nhiều điều bất ngờ thú vị, có sức hút đối với văn nghệ sĩ, trong đó có Nguyễn Minh Châu.
“Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn xuất sắc thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Trong giai đoạn này, qua tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, nhà văn đã bộc lộ sự chuyển biến quan trọng trong sáng tác: từ phong cách mang đậm tính chiến đấu, chuyển sang cảm hứng thế sự, cảm hứng nhân sinh, ngòi bút của nhà văn hướng vào thể hiện con người trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và bình yên. “Chiếc thuyền ngoài xa” thực sự là một tác phẩm mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Đồng thời giúp nhà văn gửi gắm được những thông điệp nghệ thuật quan trọng.
1.13. Hồn trương Ba, da hàng thịt:
– Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những vở kịch gây được nhiều tiếng vang nhất của Lưu Quang Vũ được viết từ năm 1981, nhưng đến năm 1984 mới lần đầu ra mắt công chúng.
– Lưu Quang Vũ viết vở kịch này dựa trên một câu chuyện dân gian những đã có những thay đổi khá cơ bản. Trong truyện dân gian, nhân vật Trương Ba tiếp tục sống bình thường, hạnh phúc khi hồn được nhập vào thân xác anh hàng thịt. Ở đây, tác giả lại tập trung diễn tả tình cảnh trớ trêu, nỗi đau khổ, giày vò của Trương Ba từ khi “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Hồn Trương Ba, da hàng thịt đã được công diễn nhiều lần trên các sân khấu trong và ngoài nước.
– Đoạn được học trích từ cảnh VII và đoạn kết của vở kịch, diễn tả sự đau khổ, dằn vặt và quyết định cuối cùng vô cùng cao thượng của Hồn Trương Ba.
1.14. Số phận con người:
– Hoàn cảnh: Truyện ngắn Số phận con người của Sô-lô-khốp được công bố lần đầu trên báo sự thật, số ra ngày 31.12.1956 và 1.1.1957.
Truyện có ý nghĩa khá quan trọng đối với toàn bộ sự phát triển của nền văn xuôi Xô viết suốt giai đoạn sau này. Bởi, người ta có thể tìm thấy ở tác phẩm này những tìm tòi chủ yếu của văn học Xô viết hiện đại.
Đây là tác phẩm đầu tiên trong văn học Xô viết, nhà văn tập trung thể hiện hình tượng con người bất hạnh sau chiến tranh, nhìn cuộc sống và chiến tranh một cách toàn diện, chân thực. Về sau, truyện được in trong tập Truyện Sông Đông.
-Chủ đề: Số phận con người tập trung khám phá nỗi bất hạnh của con người sau chiến tranh. Song tuy viết về nhưng đau thương, mất mát mà chiến tranh gây ra, tác giả vẫn giữ vững niềm tin ở tính cách Nga kiên cường cũng như lòng tin ở cuộc sống bao dung.
2. Hoàn cảnh sáng tác các tác phẩm văn học lớp 9 hay:
2.1. Chuyện người con gái Nam Xương:
“Chuyện người con gái Nam Xương” thuộc tác phẩm Truyền kì mạn lục (ghi chép tản mạn những điều kỳ lạ vẫn được lưu truyền), được viết ở thế kỉ XVI. Chuyện người con gái Nam Xương có nguồn gốc từ truyện cổ dân gian “Vợ chàng Trương”, là thiên thứ 16 trong 20 truyện của Truyền kì mạn lục
2.2. Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh:
Đoạn trích nằm trong tác phẩm Vũ trung tùy bút, viết khoảng đầu đời Nguyễn (đầu thế kỉ XIX), là tác phẩm văn xuôi ghi lại một cách sinh động, hấp dẫn hiện thực đen tối của lịch sử nước ta, vừa là tài liệu quý giá về sử học, địa lý, xã hội học
2.3. Cố Hương:
Cố hương là một trong số các truyện ngắn tiêu biểu nhất của nhà văn Lỗ Tấn, được in trong tập “Gào thét” (1923).
2.4. Hoàng Lê nhất thống chí:
Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm viết bằng chữ Hán ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê. Tác phẩm không chỉ dừng lại ở sự thống nhất của vương triều nhà Lê mà còn được viết tiếp, tái hiện một giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam vào 30 năm cuối thế kỷ 18 và mấy năm đầu thế kỉ 19. Cuốn tiểu thuyết bao gồm 17 hồi.
2.5. Truyện Kiều:
– Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) được Nguyễn Du sáng tác vào đầu thế kỉ 19 (khoảng 1805-1809)
– Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều có dựa trên cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc những phần sáng tạo của Nguyễn Du là vô cùng lớn, mang đến sự thành công và sức hấp dẫn cho tác phẩm
– Thể loại: Truyện thơ Nôm, 3254 câu thơ lục bát
2.6. Bài thơ về tiểu đội xe không kính:
Bài thơ về tiểu đội xe không kính được nhà thơ Phạm Tiến Duật sáng tác năm 1969, trên con đường chiến lược Trường Sơn. Bài thơ nằm trong chùm thơ được giải Nhất của cuộc thi thơ báo Văn nghệ tổ chức và được đưa vào tập thơ “Vầng trăng – Quầng lửa” (1970) của tác giả.
Bài thơ được sáng tác trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra rất gay go, ác liệt. Miền Bắc được giải phóng miền Nam vẫn tiếp tục chiến đấu chống đế quốc Mĩ. Vượt qua mưa bom bão đạn của kẻ thù, đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm bất chấp gian khổ và hy sinh để vận chuyển tiếp viện miền Nam. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn. Lấy cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung người chiến sĩ lái xe.
Bài thơ ca ngợi những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn thời đánh Mỹ dũng cảm ngoan cường, lạc quan yêu đời trong mưa bom bão đạn, quyết chiến đấu hi sinh vì một lý tưởng cao cả là giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.
2.7. Đoàn thuyền đánh cá:
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được nhà thơ Huy Cận sáng tác năm 1958, trong chuyến đi thực tế dài ngày tại vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi này hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài thơ được in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958)
Hưởng ứng cuộc vận động viết về cuộc sống mới hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc của chính phủ, năm 1958, Huy Cận hăm hở đến với vùng mỏ Quảng Ninh. Chính niềm vui dạt dào tin yêu trước cuộc sống mới đang hình thành, đang thay da đổi thịt đã trở thành nguồn cảm hứng lớn của thơ ca lúc bấy giờ. Từ chuyến đi ấy, hồn thơ của ông mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.
Bài thơ miêu tả đoàn thuyền đánh cá trong một đêm trăng trên Hạ Long, qua đó ca ngợi thiên nhiên đất nước nên thơ tươi đẹp đang trên đà thay da đổi thịt, hình ảnh những con người mới, hăng say lao động, tư thế hiên ngang, tràn đầy lạc quan tin tưởng, đang vươn lên làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống của mình.
2.8. Bếp lửa:
Bài thơ Bếp lửa được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành Luật ở nước ngoài. Bài thơ được đưa vào tập “Hương cây – Bếp lửa” (1968), tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.
Bếp lửa là niềm hồi tưởng xúc động của nhà thơ về hình ảnh bếp lửa quen thuộc, gần gũi và hình ảnh người bà hiền hậu. Những năm đầu theo học luật tại Khiep, nước Nga, từ xa tổ quốc, nhà thơ nhớ đến quê nhà da diết. Tháng 9 ở bên đó trời se se lạnh, buổi sáng sương khói thường bay mờ mờ mặt đất, ngoài cửa sổ, trên các vòm cây, gợi nhớ cảnh mùa đông ở quê nhà. Mỗi buổi dạy sớm đi học, nhà thơ hay nhớ đến khung cảnh một bếp lửa thân quen, nhớ lại hình ảnh bà nội lụi cụi dậy sớm nấu nồi xôi, luộc củ khoai, củ sắn cho cả nhà. Từ đó khơi gợi nguồn cảm hứng để nhà thơ viết nên bài thơ này.
Qua hình ảnh Bếp lửa – ngọn lửa, tác giả thể hiện lòng thương nhớ, kính yêu và biết ơn bà của đứa cháu đi xa, đồng thời nói lên tình yêu tha thiết đối với gia đình, quê hương, đất nước.
2.9. Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ:
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác năm 1971, khi đang công tác tại chiến khu miền tây Thừa Thiên. Tác phẩm sau này được in trong tập “Đất và khát vọng” ( 1984).
Đầu năm 1971, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta bước vào giai đoạn khốc liệt nhất trong lịch sử. Quân giặc liên tục mở những cuộc tiến công ác liệt tàn phá miền Bắc khiến cuộc sống của bộ đội và nhân dân ta trên các chiến khu rất gian nan, thiếu thốn. Ở những chiến khu miền rừng núi, cán bộ và nhân dân ta vừa bán rẫy,bám rừng vừa gia tăng sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu bảo vệ căn cứ. Lấy cảm hứng từ cuộc sống lao động và chiến đấu của đồng bào miền núi, Nguyễn khoa Điềm viết nên bài thơ này để cỗ vũ tinh thần đánh giặc của cả nước.
Bài thơ ca ngợi tấm lòng đôn hậu, dạt dào tình thương con của bà mẹ Tà ôi, tình thương con gắn liền với tình yêu nước, yêu bộ đội Cụ Hồ, yêu bà con làng bản quê hương.
2.10. Ánh trăng:
Bài thơ Ánh trăng được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978, khi ông đang là đại diện thường trú của Báo Văn nghệ tại thành phố Hồ Chí Minh. Bài thơ được in trong tập thơ cùng tên của tác giả.
Nguyễn Duy vốn là người lính. Sau khi đất nước giải phóng, ông vào làm việc và sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Bài thơ chính là những trải nghiệm thực tế của chính bản thân ông. Nơi đô thị của cuộc sống tiện nghi hiện đại, những người từ trận đánh trở về đã để lại sau lưng cuộc chiến gian khổ mà nghĩa tình. Mượn hình ảnh ánh trăng, nhà thơ bộ lộ chân thành và cảm động những ưu tư và niềm mong mỏi trân trọng và giữ gìn quá khứ nghĩa tình của con người khi bước vào cuộc sống mới.
Bài thơ ca ngợi vầng trăng tri kỉ của tuổi thơ, của người lính một thời trận mạc, đồng thời gợi nhắc mọi người biết sống ân nghĩa thủy chung, giữ trọn đạo lí tốt đẹp.
2.11. Làng:
Truyện ngắn Làng được Kim Lân sáng tác trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, tại chiến khu Việt Bắc.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, quân Pháp lật lọng, tiếp tục đưa quân sang xâm tái lược nước ta. Năm 1946, chính phủ cách mạng đưa ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Trong thời kì này,ì người dân nghe theo chính sách của chính phủ: kêu gọi nhân dân ta tản cư, những người dân ở vùng địch tạm chiếm đi lên vùng chiến khu để chúng ta cùng kháng chiến lâu dài. Ở giai đoạn đầu, nhiều người dân còn hoang mang đối với chính sách của Ủy ban kháng chiến và con đường cách mạng của lãnh tụ Hồ Chí minh. Để trình bày những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân thời kì đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng thời cổ vũ tinh thần cách mạng, Kim Lân đã viết truyện ngắn Làng.
Truyện nói về tình yêu Làng của ông Hai Thu khi phải xa làng đi tản cư, qua đó ca ngợi tình yêu quê hương đất nước và tình yêu kháng chiến chống, yêu cách mạng của người nông dân Việt Nam trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
2.12. Lặng lẽ Sapa:
Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa được Nguyễn Thành Long sáng tác trong chuyến công tác tại Lào Cai giữa mùa hè năm 1970 của tác giả. Truyện được in trong tập “Giữa trong xanh” (năm 1972).
Hưởng ứng cuộc vận động viết về cuộc sống mới hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, năm 1970, Nguyễn Thành Long chủ động tìm kiếm chủ đề ở miền Tây Bắc xa xôi. Ông hướng sự quan sát tìm kiếm những vẻ đẹp bình dị, ẩn sâu trong cuộc sống ở những nơi xa xôi hẻo lánh của đất nước. Cuối cùng, ông cũng phát hiện được hình ảnh người thanh niên làm việc trên đỉnh cao Yên Sơn – Sapa cao 2600 mét. Đó là hình tượng và nguồn cảm ứng để ông hoàn thành tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa.
Thông qua cuộc gặp gỡ giữa bốn nhân vật, ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ, bác lái xe với anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu trên đỉnh Yên Sơn giữa núi rừng Lào Cai, tác giả ca ngợi những con người lao động bình thường đang âm thầm lặng lẽ cống hiến công sức của mình cho công cuộc xây dựng XHCN và thống nhất đất nước.
2.13. Chiếc lược ngà:
Truyện ngắn Chiếc lược ngà được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ và được đưa vào tập truyện cùng tên của ông.
Năm 1966, Nguyễn Quang Sáng từ miền Bắc trở về miền Nam công tác. Ông hoạt động chủ yếu ở Vùng Đồng Tháp Mười. Một lần, ông đi ghe vào sâu trong rừng và sống ở một nhà sàn treo trên ngọn cây. Ở đó, có một đoàn giao liên dẫn đường toàn là nữ. Ông rất có ấn tượng với câu chuyện của một cô gái giao liên có chiếc lược ngà trắng. Lấy cảm hứng từ câu chuyện gia đình cảm động của nữ giao liên, sau khi nghe cô kể chuyện, lúc trở về, nhà văn ngồi viết một ngày, một đêm là hoàn thành tác phẩm này.
Truyện kể về tình cảm cha con sâu nặng của ông Sáu và bé Thu, qua đó tác giả ca ngợi tình cha con sâu nặng, tình đồng đội thiết tha trong cảnh ngộ éo le thời chiến tranh, đồng thời ca ngợi truyền thống cách mạng yêu nước của người nông dân Nam Bộ.
2.14. Viếng lăng Bác:
Bài thơ được viết vào tháng 4.1976, một năm sau ngày đất nước thống nhất. Đó cũng là khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa khánh thành.
Viễn Phương là một người con của miền Nam, cũng như đồng bào và chiến sĩ miền Nam, nhà thơ mong mỏi được một lần ra thăm Bác. Năm 1976, Viễn Phương vinh dự có mặt trong đoàn đại biểu các chiến sĩ, đồng bào miền Nam được ra viếng Bác. Xúc động tận đáy lòng, thay mặt đồng bào miền Nam, nhà thơ viết bài thơ Viếng lăng Bác.
2.15. Sang thu:
Bài thơ được Hữu Thỉnh sáng tác vào gần cuối năm 1977 (sau ngày giải phóng đất nước 2 năm) trong một cuộc thi sáng tác thơ ca tại trại hè. Bài thơ được in lần đầu ở báo Văn nghệ, sau đó in trong tập thơ Từ chiến hào đến thành phố (xuất bản năm 1991).
Sang thu là những cảm nhận hết sức tinh tế của nhà thơ trước khoảnh khắc giao mùa và những suy ngẫm của tác giả về cuộc đời ẩn chứa qua bức tranh thiên nhiên ấy.
2.16. Bến quê:
Truyện ngắn Bến quê in trong tập truyện cùng tên của Nguyễn Minh Châu, xuất bản năm 1985.
Trong truyện ngắn này, ngòi bút của nhà văn hướng vào đời sống thế sự nhân sinh thường ngày, với những chi tiết sinh hoạt đời thường để phát hiện những chiều sâu của cuộc sống với bao qui luật và nghịch lý, vượt ra khỏi cách nhìn, cách nghĩ trước đây của cả xã hội và của chính tác giả.
2.17. Những ngôi sao xa xôi:
“Những ngôi sao xa xôi” ở trong số những tác phẩm đầu tay của Lê Minh Khuê,viết năm 1971, lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc đang diễn ra các liệt.Văn bản đưa vào sách giáo khoa có lược bớt một số đoạn. Truyện ngắn được đưa vào tuyển tập “Nghệ thuật truyện ngắn thế giới” xuất bản ở Mỹ.
“Những ngôi sao xa xôi” kể về cuộc sống chiến đấu của ba cô thanh niên xung phong – tổ trinh sát mặt đường – Phương Định, Nho và chị Thao. Họ sống trong một cái hang,trên cao điểm tại một vùng trọng điểm ở tuyến đường Trường Sơn những năm chống Mỹ. Công việc của họ là quan sát máy bay địch ném bom, đo khối lượng đất đá để san lấp hố bom do địch gây ra, đánh dấu những quả bom chưa nổ và phá bom. Công việc nguy hiểm, luôn phải đối mặt với cái chết, nhưng cuộc sống của họ vẫn không mất đi niềm vui hồn nhiên của tuổi trẻ, những giây phút thảnh thơi, thơ mộng. Họ rất gắn bó, yêu thương nhau dù mỗi người một cá tính. Trong một lần phá bom, Nho bị thương, hai người đồng đội hết lòng lo lắng và chăm sóc cho Nho. Một cơn mưa đá vụt đến và vụt đi đã gợi trong lòng Phương Định bao hoài niệm, khát khao.
Mỗi người có một cá tính riêng nhưng ở họ đều ngời sáng vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng Việt Nam, của tuổi trẻ Việt Nam. Viết về ba cô thanh niên xung phong, Lê Minh Khuê đã không tô vẽ, không mĩ lệ mà miêu tả hết sức cụ thể, chân thực bằng cách cá thể hóa nhân vật với những hình ảnh rất đời thường. Họ đã từ cuộc đời bước vào trang sách, trở thành những anh hùng – những ngôi sao trên bầu trời Trường Sơn.
3. Hoàn cảnh sáng tác của các tác phẩm thơ hiện đại – Ngữ Văn 9 hay:
3.1. Đồng chí (Chính Hữu):
Bài thơ sáng tác vào mùa xuân năm 1948, thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ được đánh giá là tiêu biểu của thơ ca kháng chiến giai đoạn 1946 – 1954, nó đã làm sang trọng một tâm hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.
3.2. Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật):
Bài thơ viết năm 1969, thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra rất ác liệt trên con đường chiến lược Trường Sơn.
Bài thơ được tặng giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969 và được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” của tác giả.
3.3. Đoàn thuyền đánh cá (Huy Cận):
Bài thơ được viết vào giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại, dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.
Bài thơ được in trong tập thơ “Trời mỗi ngày một sáng”.