Dẫn độ tội phạm là một trong những vấn đề đã được quy định từ lâu phải luôn luôn thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Vậy trường hợp nào Việt Nam sẽ từ chối dẫn độ tội phạm cho nước ngoài?
Mục lục bài viết
1. Trường hợp nào Việt Nam từ chối dẫn độ cho nước ngoài:
Trước hết, căn cứ theo quy định tại Điều 32 của Luật tương trợ tư pháp năm 2007 có quy định về dẫn độ. Theo đó, dẫn độ tội phạm là khái niệm để chỉ việc một quốc gia chuyển giao cho quốc gia khác người có hành vi phạm tội hoặc chuyển giao đối với người bị kết án hình sự đang có mặt trên lãnh thổ của quốc gia mình, nước nhận chuyển giao sẽ thực hiện hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án đối với người phạm tội đó. Dẫn độ tội phạm là một trong những chế định hỗ trợ lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới trong vấn đề thực hiện tội phạm, bắt buộc người phạm tội trở về nước để thực hiện các bạn án chưa thi hành hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật đối với quốc gia tiếp nhận người dẫn độ. Đối với tội phạm là người mang quốc tịch nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tội phạm nước ngoài đang lẩn trốn trên lãnh thổ của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền tại Việt Nam có thể:
– Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền nước ngoài thực hiện hoạt động dẫn độ cho nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam người có hành vi phạm tội hoặc người bị kết án hình sự mà bản án đã có hiệu lực pháp luật, để nước Việt Nam tiến hành hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án đối với người đó trên thực tế;
– Thực hiện thủ tục dẫn độ người nước ngoài đang hiện diện trên lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có hành vi phạm tội, hoặc bị kết án hình sự mà bạn án đó đã có hiệu lực pháp luật cho nước có yêu cầu dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án đối với người đó.
Như vậy, pháp luật đã có quy định cụ thể về vấn đề dẫn độ tội phạm. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định thì pháp luật cho phép nước Việt Nam từ chối dẫn độ cho nước ngoài. Căn cứ theo quy định tại Điều 35 của Luật tương trợ tư pháp năm 2007 có quy định về vấn đề từ chối dẫn độ cho nước ngoài. Cụ thể như sau:
– Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ có quyền từ chối hoạt động dẫn độ cho nước ngoài nếu yêu cầu dẫn độ của quốc gia đó thuộc một trong những trường hợp cơ bản sau đây:
+ Người bị yêu cầu dẫn độ được xác định là công dân mang quốc tịch nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
+ Theo quy định của pháp luật nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì người bị yêu cầu dẫn độ đó không thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị yêu cầu dẫn độ không thể chấp hành hình phạt do đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc vì những lý do hợp pháp khác;
+ Người bị yêu cầu dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự đã bị thcơ quan có thẩm quyền đó là tòa án của Việt Nam kết tội bằng một bản án đã có hiệu lực pháp luật về hành vi phạm tội của mình được nêu trong yêu cầu dẫn độ của quốc gia yêu cầu, hoặc vụ án đó đã bị đình chỉ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
+ Người bị yêu cầu dẫn độ được xác định là người đang cư trú trên lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vì lý do khả năng họ bị truy bức ở nước yêu cầu dẫn độ, do nước đó có hiện tượng phân biệt về chúng tộc hoặc tôn giáo, phân biệt về giới tính, phân biệt về dân tộc, quốc tịch, phân biệt thành phần xã hội hoặc có quan điểm chính trị sai lệch;
+ Trường hợp yêu cầu dẫn độ tội phạm có liên quan đến nhiều tội danh khác nhau, đồng thời mỗi tội danh đó đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật về nước yêu cầu dẫn độ, tuy nhiên không đáp ứng được điều kiện quy định tại Điều 33 của Luật tương trợ tư pháp năm 2007.
– Ngoài những trường hợp từ chối dẫn độ theo các trường hợp nêu trên, cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn có thể từ chối dẫn độ nếu yêu cầu dẫn độ của quốc gia nước ngoài thuộc một trong những trường hợp cơ bản sau đây:
+ Hành vi của người bị yêu cầu dẫn độ không được xác định là tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam;
+ Người bị yêu cầu dẫn độ đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về hành vi phạm tội được nêu trong yêu cầu dẫn độ đó.
– Đồng thời, cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ chối dẫn độ trong các trường hợp nêu trên sẽ phải có trách nhiệm và nghĩa vụ thông báo bằng văn bản cho cơ quan có thẩm quyền tương ứng của nước yêu cầu dẫn độ.
Như vậy có thể nói, nếu thuộc một trong những trường hợp trên đây thì Việt Nam sẽ được từ chối dẫn độ trong nước ngoài.
2. Đối tượng có thể bị dẫn độ bao gồm những ai?
Pháp luật hiện nay đã quy định cụ thể về các đối tượng có thể bị dẫn độ. Căn cứ theo quy định tại Điều 33 của Luật tương trợ tư pháp năm 2007 có quy định về những đối tượng có thể bị dẫn độ như sau:
– Người có thể bị dẫn độ được xác định là người có hành vi phạm tội mà pháp luật hình sự Việt Nam và pháp luật hình sự của nước yêu cầu dẫn độ có quy định phải thuộc một trong những trường hợp như sau:
+ Phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn trong khoảng thời gian từ một năm trở lên, tù chung thân hoặc tử hình;
+ Đã bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án của nước yêu cầu dẫn độ xử phạt tù, tuy nhiên thời hạn chấp hành hình phạt tù còn lại ít nhất phải là 06 tháng.
– Hành vi phạm tội của người có thể bị dẫn độ không nhất thiết phải thuộc cùng một nhóm tội phạm hoặc cùng một tội danh trùng khớp giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật hình sự của nước yêu cầu dẫn độ, các yếu tố cấu thành tội phạm cũng không nhất thiết phải giống nhau theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước yêu cầu dẫn độ, miễn sao hành vi đó đều được coi là tội phạm;
– Trường hợp hành vi phạm tội của người có thể bị dẫn độ xảy ra ngoài lãnh thổ của nước yêu cầu dẫn độ thì việc dẫn độ người phạm tội vẫn có thể sẽ được thực hiện nếu quy định của pháp luật hình sự Việt Nam coi đó là hành vi phạm tội.
3. Xem xét yêu cầu dẫn độ của nhiều nước đối với một người:
Căn cứ theo quy định tại Điều 39 của Luật tương trợ tư pháp năm 2007 có quy định về vấn đề xem xét yêu cầu dẫn độ của nhà nước đối với một người. Cụ thể như sau:
– Trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền đó là Bộ công an nhận được văn bản của hai hoặc nhiều nước yêu cầu dẫn độ về cùng một người, cùng một tội phạm hoặc nhiều tội phạm khác nhau, thì Bộ công an sẽ tiến hành phối hợp với Bộ ngoại giao, Bộ tư pháp và viện kiểm sát nhân dân tối cao, phối hợp với tòa án nhân dân tối cao để cùng nhau xem xét và đưa ra quyết định cuối cùng sao cho đáp ứng yêu cầu dẫn độ cho một trong các nước yêu cầu dẫn độ, sau đó tiếp tục chuyển hồ sơ yêu cầu dẫn độ cho tòa án nhân dân cấp tỉnh để xem xét và đưa ra quyết định cuối cùng về việc dẫn độ tội phạm;
– Khi xem xét yêu cầu dẫn độ khi có nhiều nước yêu cầu dẫn độ đối với cùng một người, ngoài quy định của pháp luật thì còn phải xem xét đến các yếu tố có liên quan. Có thể kể đến các yếu tố cơ bản như sau:
+ Quốc tịch hữu hiệu của người bị yêu cầu dẫn độ, nơi thường trú cuối cùng của người bị yêu cầu dẫn độ;
+ Tính hợp pháp của yêu cầu dẫn độ, mức độ phù hợp của yêu cầu dẫn độ;
+ Thời gian thực hiện tội phạm, địa điểm thực hiện tội phạm, lợi ích riêng của các nước trong yêu cầu dẫn độ;
+ Mức độ nghiêm trọng của tội phạm, quốc tịch của bị hại, khả năng dẫn độ tiếp theo giữa các nước yêu cầu dẫn độ tội phạm;
+ Ngày đưa ra yêu cầu dẫn độ tội phạm, và các yếu tố có liên quan khác.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Luật tương trợ tư pháp 2007.