Đây là một nền văn hóa, văn minh cổ đại xuất hiện sớm nhất vùng Đông Nam Á. Phù Nam đã có một thời kỳ hình thành, phát triển vô cùng mạnh mẽ, nhưng về sau gặp biến cố nên đã bị suy vong và biến mất. Bài viết dưới đây chúng ta sẽ tìm hiểu về các thành tựu tiêu biểu của văn minh Phù Nam.
Mục lục bài viết
1. Trình bày các thành tựu tiêu biểu của văn minh Phù Nam:
* Một số thành tựu tiêu biểu của văn minh Phù Nam:
– Nghệ thuật và kiến trúc đặc trưng: Văn minh Phù Nam đã phát triển một nghệ thuật và kiến trúc riêng biệt, với các tác phẩm gốm sứ và đồng, đặc biệt là những chiếc đồ sứ với họa tiết phức tạp và đa dạng màu sắc. Các công trình kiến trúc của Phù Nam cũng thường có các đặc điểm độc đáo, như các cột đá, bức tường gạch và cánh cửa tròn.
– Thương mại và giao thương: Văn minh Phù Nam đã phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực thương mại và giao thương, với việc trao đổi hàng hóa và văn hóa với các quốc gia lân cận như Trung Quốc, Ấn Độ, và các quốc gia Đông Nam Á khác.
– Phát triển ngôn ngữ và chữ viết: Văn minh Phù Nam đã có sự phát triển của ngôn ngữ và hệ thống chữ viết riêng, gọi là chữ Nôm, được sử dụng để ghi chép văn bản và diễn đạt các ý nghĩa văn hóa, tôn giáo, và xã hội.
– Nền văn hóa đa dạng: Văn minh Phù Nam đã phát triển một nền văn hóa đa dạng, với sự kết hợp của nhiều dòng chảy văn hóa khác nhau từ các vùng lân cận và cả từ nội bộ của nền văn minh này.
– Công nghệ và nghệ thuật sản xuất: Phù Nam đã có những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực công nghệ và nghệ thuật sản xuất, với việc phát triển các phương pháp nung gốm, đúc đồng, và các kỹ thuật sản xuất nghệ thuật.
* Sự ra đời của nhà nước
– Vào khoảng đầu Công nguyên, Vương quốc Phù Nam đã được thành lập. Đứng đầu nhà nước là vua, có quyền lực cao nhất, cai trị bằng cả vương quyền và thần quyền; giúp việc cho vua là các quan lại trong hệ thống chính quyền với nhiều cấp bậc.
– Từ thế kỉ III đến thế kỉ V, tổ chức nhà nước Phù Nam ngày càng được hoàn thiện. Phù Nam vươn lên trở thành vương quốc hùng mạnh nhất khu vực Đông Nam Á.
* Hoạt động kinh tế
– Phù Nam trở thành một trong những trung tâm buôn bán thương mại quan trọng bậc nhất lúc bấy giờ.
– Một số nghề thủ công và nông nghiệp ở Phù Nam cũng khá phát triển.
* Đời sống vật chất
– Nhà ở: Cư dân Phù Nam chủ yếu ở trong những ngôi nhà sàn rộng làm bằng gỗ, lợp mái lá, phù hợp với môi trường sông nước và khí hậu nóng ẩm
– Ẩm thực: lương thực, thực phẩm chính của người Phù Nam là lúa gạo, các loại thịt và thuỷ, hải sản.
– Trang phục tương đối đơn giản: đàn ông đóng khố, ở trần; phụ nữ mặc váy và đeo một số đồ trang sức như vòng tay, khuyên tai,…
– Phương tiện đi lại: cư dân Phù Nam đi lại chủ yếu bằng thuyền trên kênh, rạch, sông ngòi
* Đời sống tinh thần
– Tín ngưỡng, tôn giáo
+ Cư dân Phù Nam có tín ngưỡng thờ đa thần, duy trì tín ngưỡng phồn thực.
+ Trong quá trình giao lưu buôn bán với Ấn Độ, người Phù Nam đã tiếp nhận các tôn giáo như: Phật giáo, Hin-đu giáo,…
– Phong tục, tập quán:
+ Phong tục chôn cất người chết bằng nhiều hình thức như thuỷ táng, hoả táng, thổ táng và điểu táng.
+ Khi gia đình có tang, người thân phải cạo đầu, cạo râu và mặc đồ trắng.
2. Lịch sử văn minh Phù Nam:
Đây là một nền văn hóa, văn minh cổ đại xuất hiện sớm nhất vùng Đông Nam Á. Phù Nam đã có một thời kỳ hình thành, phát triển vô cùng mạnh mẽ, nhưng về sau gặp biến cố nên đã bị suy vong và biến mất. Tất cả đền đài, thành quách đều bị chôn vùi trong lòng đất suốt hàng nghìn năm. Về sau người ta chỉ biết đến Vương quốc Phù Nam qua sự phát hiện ra nền văn hóa Óc Eo từ cuộc khai quật đầu tiên của nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret tại gò Óc Eo (xã Vọng Khê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang) vào năm 1944. Với những gì Louis Malleret phát hiện, cùng với những kết quả khảo cổ của các đồng nghiệp Việt Nam sau này đã vẽ nên một cách sống động về nền văn hóa cổ từng tồn tại và phát triển rực rỡ ở đồng bằng sông Cửu Long từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII sau Công Nguyên.
Về nguồn gốc ra đời của của Nhà nước Phù Nam và vương triều Hindu giáo đầu tiên, sách “Nam tề thư” của Trung Quốc có ghi: “Nước Phù Nam thuộc hướng Nam, phía Tây là biển lớn và phía Nam là quận Nhật Nam (Trung Quốc) có diện tích rộng hơn 3000 dặm. Nước ấy có một con sông lớn chảy theo hướng Tây ra biển. Trước đây nước này do một vị Nữ vương tên là Liễu Diệp (Lưu Yi) cai trị. Tục nước này vốn khỏa thân, vẽ mình, xõa tóc, không biết may quần áo, phụ nữ làm vua. Phía Nam nước ấy có một nước Khích, quốc vương là Hỗn Điền (Kaundinia). Hỗn Điền là người rất chăm thờ thần linh. Theo chiêm bao và theo lời chỉ dẫn của các vị thần, Hỗn Điền cưỡi thuyền ra biển đi theo hướng về đất Phù Nam. Thấy thuyền lạ xâm phạm vào lãnh thổ, Liễu Diệp mang quân ra tấn công, một cuộc chạm trán nổ ra và Liễu Diệp xin hàng. Hỗn Điền đã cưới Liễu Diệp làm vợ vì đây là mối “nhân duyên kỳ ngộ” đã được thần linh mách bảo từ trước. Từ đó Hỗn Điền cai trị Phù Nam, thay đổi một số tập tục ở nước này, lệnh cho phụ nữ phải dùng vải quấn hoặc may quần áo mặc, bỏ tục khỏa thân. Hỗn Điền cùng Liễu Diệp sinh được 7 người con nên chia nước làm 7 ấp (tương đương với thành- phủ), giao cho các con cai trị, mỗi người giữ 1 ấp gọi là “Tiểu vương”, còn một phần lớn diện tích trong hoàng cung do nhà vua hay còn gọi là “Đại vương” quản lý và quản lý cả các “Tiểu vương”. Mỗi thành của các “Tiểu vương” quản lý một khu vực dân cư đông đúc từ 2-5 km2 và hàng trăm bàu nước (mỗi bàu nước dùng cho hàng chục hộ dân sinh hoạt”.
Vương quốc Phù Nam đặt Thủ đô tại Lò Gò (cách thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang ngày nay khoảng 30 km về phía Tây Nam). Quân đội có các lực lượng thủy- tượng- bộ binh làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, trật tự xã hội và bờ cõi biên cương. Vì thế vào lúc cực thịnh, vương quốc Phù Nam đã kiểm soát về phía Đông đến tận cùng phía Nam Trung Bộ thuộc Việt Nam ngày nay, về phía Tây đến thung lũng sông Mê Nam của Thái Lan. Dân chúng Phù Nam, cũng như nhà vua đều tôn thờ tín ngưỡng tâm linh, nhất là tôn kính thờ phụng các vị thần của đạo Bà La Môn và Phật giáo. Do đó giới tăng lữ, đạo sĩ được trọng dụng và nắm thần quyền – vương quyền. Kế đến là các nhà sư, hòa thượng nắm độc quyền bang giao. Giới đại thương gia, đại điền chủ là nền tảng xã hội, chi phối nền kinh tế- nông nghiệp lẫn thương mại. Pháp luật của Phù Nam là “ luật pháp Thiên Chúc” do nhà vua thực thi theo “ thần linh chiêm nghiệm”- “ thần linh mách bảo”. Vua cho xây dựng đền đài khắp nơi để thờ cúng thần linh. Phần đông dân chúng đều tôn thờ Phật pháp và tuân theo đạo sĩ Bà La Môn. Xã hội Phù Nam cũng có kết cấu tổ chức như các chế độ xã hội hiện đại hiện nay. Bộ máy nắm quyền quản lý xã hội với người đứng đầu là vua, kế đến là các hoàng thân, các lãnh chúa và giới tăng lữ. Ở thời đại của quốc gia cổ đầu tiên này cũng có đội ngũ những người làm khoa học, người dạy học nhưng là các thầy tu dạy chữ Phạn. Cũng có người đi lính tham gia vào quân đội; cũng có người hoạt động nghệ thuật – văn nghệ như đào kép, vũ công ca múa nhạc phục vụ cho giới quan lại cung đình. Ở thời đại Phù Nam, nghề luyện kim, đúc khuôn rất phát triển với số lượng lớn phường thợ kim hoàn, thợ rèn. Các ngành nghề khác như nghề dệt, nghề mộc, xây dựng, khai thác lâm hải sản cũng phát triển và có cả đội ngũ chuyên môn. Vương quốc Phù Nam còn có một nền nông nghiệp khá phát triển với nghề trồng lúa nước, trồng mía đường; một bộ phận nông dân trồng vườn, chăn nuôi, đánh bắt thủy sản. Song giàu có nhất là tầng lớp thương nhân. Một tầng lớp thương gia buôn bán tại chỗ và thương nhân vãng lai từ một số vùng đất trong khu vực, thậm chí từ Trung Hoa, Địa Trung Hải, Vịnh Ba Tư gồm nhiều sắc tộc và tôn giáo khác nhau thường xuyên đến trao đổi mua bán với Phù Nam.
3. Hệ thống kênh rạch cổ thời văn minh Phù Nam:
Người Phù Nam có cuộc sống rất thực tế. Sống trên vùng ngập nước, họ đã tận dụng địa hình để đào những con kênh thoát nước, dẫn nước và để giao thông đi lại. Con kênh Kiên Giang- Minh Hải (nay là Bạc Liêu) chạy qua các khu di tích Núi Sam, Bảy Núi, Óc Eo (An Giang) hay Giếng Đá từ di chỉ Tráp Đá (An Giang) chạy dài hơn 30km đến khu di tích Nền Chùa (Kiên Giang). Kênh số Một chạy từ Đông sang Tây của huyện Tri Tôn (An Giang) với khoảng 16km. Ngay ở khu di tích Óc Eo – Núi Sập – Định Mỹ (An Giang) có những con kênh cổ tạo thành một mạng lưới chằng chịt tỏa như nan quạt nối liền các di chỉ Óc Eo. Theo các nhà khảo cổ học, quan sát thực tế cho thấy tại Đá Nổi (nay thuộc Cần Thơ) là điểm hội tụ của 11 đoạn kênh đào cổ. Cư dân cổ của Vương quốc Phù Nam ở vùng châu thổ sông Cửu Long không trị thủy bằng đê mà bằng cách đào kênh, dẫn nước vào ruộng, khai thác lợi thế từ nguồn nước, sông rạch. Một số người còn sống bằng nghề cá. Người dân sống trên nhà sàn vì đó vốn sình lầy, là vùng đồng bằng thấp ngập nước. Các đền đài, mộ táng thì được xây dựng trên các gò đất đắp hoặc đồi núi cao. Có đền đài dài đến 25m rộng 16m, kè móng đá cao 2m. Điều này cho thấy Phù Nam là một xã hội thượng tôn tín ngưỡng tôn giáo hết sức mạnh mẽ.
Trong quá trình phát triển, Vương quốc Phù Nam đã chú trọng đến việc hình thành các thương cảng phục vụ cho việc giao thương với các xứ khác. Bởi vậy trong giai đoạn phát triển cực thịnh của mình, Phù Nam không chỉ có một thương cảng Óc Eo (An Giang) và một tiền cảng Nền Chùa (Kiên Giang), mà còn có các thương điếm từ Óc Eo qua Đá Nổi đến Phú Long (Sa Đéc), Gò Thành (Vĩnh Long) rồi các trung tâm ở vùng Mỹ Tho – Gò Công trước khi đến Cần Giờ đổ ra Biển Đông. Vùng vịnh cổ này chạy theo hướng Đông – Tây từ mũi Vũng Tàu đến cửa sông cổ ở Thoại Giang, Thoại Sơn, An Giang “phải đi qua hàng trăm dặm dọc theo con sông trong vùng rừng sác (người Nam Bộ gọi cây mắm là cây sác) để đến kinh đô Phù Nam.
THAM KHẢO THÊM: