Trẻ em là mầm non của đất nước và cần được quan tâm chăm sóc. Trẻ em là cụm từ được dùng để chỉ những em bé nhỏ tuổi. Sự phát triển của trẻ có vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với mỗi quốc gia. Chính vì vậy các quy định về trẻ em cũng có những vai trò quan trọng trong thực tiễn.
Mục lục bài viết
1. Trẻ em là gì?
Trẻ em là cụm từ rất quen thuộc và có nghĩa rất đơn giản, thông dùng vì ai ai cũng biết và cũng hiểu.
Thực tế, khái niệm trẻ em được hiểu theo nhiều khía cạnh. Cũng có rất nhiều khái niệm biểu thị vấn đề này. Cụ thể như sau: Về mặt sinh học, trẻ em được hiểu chính là những con người ở giữa giai đoạn sơ sinh và tuổi dật thì. Định nghĩa pháp lý về một đối tượng là trẻ em nói chung sẽ để biểu thị một đứa trẻ, còn được biết tới là một người chưa trường thành.
Xét về góc độ pháp lý, khái niệm này cũng được quy ước theo nhiều cách khác nhau.
Theo Công ước quyền trẻ em tại Điều 1 quy định về khái niệm trẻ em như sau: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định dưới tuổi thành niên sớm hơn”.
Tuy nhiên, trong Luật trẻ em Việt Nam 2016, ở Điều 1 lại đưa ra quy định sau đây: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”.
Từ đó ta có thể khẳng định rằng có sự khác biệt quy định về độ tuổi của trẻ em ở Việt Nam so với Công ước quốc tế.
Tất cả các đối tượng là trẻ em cần được nuôi dưỡng, giáo dục, theo dõi quá trình phát triển của trẻ. Ở nhiều xã hội, trẻ em sau độ tuổi 12 tháng có thể đến trường mẫu giáo để nhận được sự chăm sóc, giúp cha mẹ của chúng có thời gian hoạt động xã hội. Từ sau 6 năm tuổi, nhiều quốc gia quy định trẻ em bắt buộc phải đến trường tiểu học.
2. Người bao nhiêu tuổi thì được coi là trẻ em?
2.1. Độ tuổi của trẻ em theo quy định của pháp luật quốc tế:
Hiện nay, căn cứ theo các văn bản quốc tế và các chương trình của Liên Hợp quốc sử dụng đồng thời cả hai khái niệm trẻ em và người chưa thành niên. Theo đó, Liên Hợp Quốc đã ban hành quy định người thành niên là người đủ 18 tuổi và người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi.
Như vậy, thông qua đó, chúng ta có thể thấy trẻ em theo quy định của Liên Hợp Quốc là những người dưới 18 tuổi. Có sự quy định trên là bởi vì do thiếu nhi là những chủ thể còn non nớt về trí tuệ và thể chất. Tất cả các đối tượng là trẻ em đều cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ về mặt pháp lý, trước cũng như sau khi ra đời.
2.2. Người bao nhiêu tuổi thì được coi là trẻ em theo pháp luật Việt Nam:
Căn cứ theo quy định Luật Trẻ em được Quốc hội thông qua trong kỳ hợp thứ 11 khóa XIII ngày 05 tháng 04 năm 2016, chính thức có hiệu lực từ ngày 01/6/2017 và thay thế Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định tại điều 1 như sau:
“ Điều 1. Trẻ em
Trẻ em là người dưới 16 tuổi”.
Như vậy, ta nhận thấy, câu trả lời cho câu hỏi người bao nhiêu tuổi thì được coi là trẻ em sẽ là trẻ em là người dưới 16 tuổi.
Trẻ em dưới 16 tuổi chính là người chưa thành niên, chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của một công dân theo quy định của pháp luật. Việc xác định một người ở độ tuổi trẻ con hay độ tuổi thành niên để xác định quyền và nghĩa vụ của người đó. Bên cạnh đó thì việc xác định người bao nhiêu tuổi thì được coi là trẻ em cũng giúp xác định trách nhiệm hành vi của người đó trước pháp luật.
Tùy thuộc vào mỗi quốc gia, lĩnh vực, ngành nghề mà quy định về độ tuổi trẻ em có sự khác nhau. Hiện nay tại Việt Nam thì trẻ em được thống nhất giữa các bộ luật và văn bản Luật hiện hành để có thể dễ dàng quản lý. Theo đó, trẻ em là những người dưới 16 tuổi.
Ta nhận thấy rằng, hiện nay, quy định về độ tuổi của trẻ em tại Việt Nam so với quy định độ tuổi trẻ em trên Thế giới là giảm 2 tuổi so với quy định của Liên Hợp quốc.
Mặt khác, theo quy định tại khoản 4 điều 4
Trong giai đoạn hiện nay, các nghiên cứu về việc nâng độ tuổi pháp lý của trẻ em lên dưới 18 trở nên khá phổ biến và rất được quan tâm. Hội Bảo vệ Quyền trẻ em Việt Nam phối hợp cùng Tổ chức Plan tại Việt Nam thực hiện đã chỉ rõ, về cơ sở khoa học, tâm sinh lý của trẻ em từ 16 đến 18 tuổi vẫn còn non nớt, chưa hoàn thiện, có những thay đổi lớn trong giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ em lên người trưởng thành với nhận thức xã hội, hành vi chưa chín chắn.
Chính vì thế, trẻ em trong lứa tuổi này thông thường dễ bị tổn thương, dễ bị lợi dụng và lệch lạc về hành vi, thái độ, nhận thức; đồng nghĩa với việc dễ bị vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp cũng như có nguy cơ thực hiện các hành vi trái pháp luật khá cao. Cũng chính vì vậy mà có nhiều ý kiến trong giai đoạn hiện nay cho rằng nên nâng độ tuổi của trẻ em lên đến dưới 18 tuổi để nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các đối tượng này.
3. Quyền lợi của trẻ em:
Kể từ khi
– Quyền sống là một quyền cơ bản của trẻ em: Trẻ em có quyền được bảo vệ tính mạng, được bảo đảm tốt nhất các điều kiện sống và phát triển.
– Quyền được khai sinh và có quốc tịch là một quyền cơ bản của trẻ em: Trẻ em có quyền được khai sinh, khai tử, có họ, tên, có quốc tịch; được xác định cha, mẹ, dân tộc, giới tính theo quy định của pháp luật.
– Quyền được chăm sóc sức khỏe là một quyền cơ bản của trẻ em.
– Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng là một quyền cơ bản của trẻ em.
– Quyền được giáo dục, học tập và phát triển năng khiếu là một quyền cơ bản của trẻ em.
– Quyền vui chơi, giải trí là một quyền cơ bản của trẻ em.
– Quyền giữ gìn, phát huy bản sắc là một quyền cơ bản của trẻ em.
– Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền cơ bản của trẻ em.
– Quyền về tài sản là một quyền cơ bản của trẻ em.
– Quyền bí mật đời sống riêng tư là một quyền cơ bản của trẻ em.
– Quyền được sống chung với cha, mẹ là một quyền cơ bản của trẻ em.
– Quyền được đoàn tụ, liên hệ và tiếp xúc với cha, mẹ là một quyền cơ bản của trẻ em.
– Quyền được chăm sóc thay thế và nhận làm con nuôi là một quyền cơ bản của trẻ em.
– Quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục là một quyền cơ bản của trẻ em.
– Quyền được bảo vệ để không bị bóc lột sức lao động là một quyền cơ bản của trẻ em.
– Quyền được bảo vệ để không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc là một quyền cơ bản của trẻ em.
– Quyền được bảo vệ để không bị mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt là một quyền cơ bản của trẻ em.
– Quyền được bảo vệ khỏi chất ma túy là một quyền cơ bản của trẻ em.
– Quyền được bảo vệ trong tố tụng và xử lý vi phạm hành chính là một quyền cơ bản của trẻ em.
– Quyền được bảo vệ khi gặp thiên tai, thảm họa, ô nhiễm môi trường, xung đột vũ trang là một quyền cơ bản của trẻ em.
– Quyền được bảo đảm an sinh xã hội là một quyền cơ bản của trẻ em.
– Quyền được tiếp cận thông tin và tham gia hoạt động xã hội là một quyền cơ bản của trẻ em.
– Quyền được bày tỏ ý kiến và hội họp là một quyền cơ bản của trẻ em.
– Quyền của trẻ em khuyết tật là một quyền cơ bản của trẻ em.
– Quyền của trẻ em không quốc tịch, trẻ em lánh nạn, tị nạn là một quyền cơ bản của trẻ em.
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì trẻ em cũng có những quyền riêng được quy định cụ thể bên trên, cơ bản đó chính là những quyền được sống và lớn lên một cách tốt nhất. Những quyền này được đưa ra với mục đích là bảo vệ cho trẻ em và cho trẻ một môi trường sống lành mạnh, an toàn và góp phần giáo dục trẻ. Trong đó, cha mẹ sẽ cần phải là người có trách nhiệm yêu thương và cho chúng các nhu cầu sống cần thiết như là ăn, ở, mặc, được đi học, giáo dục và chăm sóc sức khỏe. Cùng với đó là việc giúp cho trẻ em có sự phát triển bình thường về mặt tâm lý và tránh khỏi sự lạm dụng hay xâm hại trẻ em.
Hiện nay cũng có nhiều trường hợp trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt. Đối với trường hợp trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt thì việc được hưởng quyền lợi cũng là rất khó khăn. Để nhằm mục đích có thể ngăn chặn và giảm thiểu các trường hợp trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em phải được coi trọng. Nhà nước ta cũng cần đưa ra những chính sách nhằm tạo điều kiện để trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được hưởng các quyền của trẻ em. Bên cạnh đó, Nhà nước ta cũng cần phải hỗ trợ cá nhân, gia đình nhận chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em; khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia trợ giúp trẻ em để nhằm mục đích có thể đảm bảo cho mọi trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt không còn nơi nương tựa được chăm sóc, nuôi dưỡng.