Tranh tụng tại phiên tòa là hình thức tố tụng mà Tòa án thay mặt Nhà nước xác định sự thật của vụ án trên cơ sở điều tra công khai tại phiên tòa, nghe ý kiến của các bên tham gia tranh tụng để ra quyết định phán xét giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, đầy đủ và đúng pháp luật.
Mục lục bài viết
1. Khái niệm, nguyên tắc hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự:
Hoạt động tranh tụng diễn ra trên nhiều lĩnh vực khác nhau như tranh tụng trong tố tụng Dân sự, tranh tụng trong tố tụng Hành chính, Lao động, Kinh doanh thương mại, ... Trong phạm vi của luận văn này tác giả chỉ đề cập đến tranh tụng trong tố tụng Hình sự.
Trong tiếng Anh “tranh tụng” là “adversarial” – có nghĩa là đối kháng, đương đầu. Theo từ điển Luật học do Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Nhà xuất bản Tư pháp, Viện khoa học pháp lý xuất bản năm 2006, “tranh tụng” có nghĩa là các hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm lợi ích của mình, phản bác lại các quan điểm, lợi ích của phía đối lập. Như vậy, tranh tụng tại phiên tòa là những hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên tòa xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên kia, dưới sự điều khiển, quyết định của Tòa án với vai trò trung gian, trọng tài.
Có nhiều quan niệm cho rằng, nguyên tắc đặc trưng cho TTHS tư sản là tranh tụng. Trước đó, hệ thống tư pháp nước ta được tổ chức và hoạt động theo truyền thống luật Châu Âu lục địa, tức là hệ thống luật sử dụng mô hình tố tụng xét hỏi. Do vậy, trước năm 2002 thuật ngữ “tranh tụng” chưa từng được sử dụng trong các văn bản pháp luật của nước ta. Vấn đề tranh tụng đã được đề cập đến trong các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành sau khi BLTTHS 1988 ra đời. Đặc biệt khi Nghị quyết số 08/NQ–TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam được ban hành đã khẳng định rằng: Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để Luật sư tham gia vào quá trình tố tụng... Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, Người bào chữa và Những người tham gia tố tụng khác... Khi xét xử Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc xét xử của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, Người bào chữa, Bị cáo ... [3, tr.9]. Vấn đề này được xác định rõ hơn tại Nghị quyết số 49–NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020” trong đó “xác định Tòa án có vai trò trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”. Đặc biệt, tại Hiến pháp 2013, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, nguyên tắc tranh tụng được thừa nhận chính thức trong một văn bản pháp lý của Nhà nước, đồng thời, ngày 27/12/2015, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã được Quốc hội thông qua trong đó nguyên tắc tranh tụng được thể hiện rõ ràng tại Điều 26.
Như vậy, tranh tụng trong TTHS không còn là vấn đề mới, nhưng đây là vấn đề gây ra nhiều tranh cãi với nhiều cách lý giải khác nhau. Để làm sáng tỏ khái niệm này, các nhà nghiên cứu thường sẽ đề cập đến các vấn đề về mô hình tố tụng tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng, quá trình tranh tụng...nghĩa là giải thích tranh tụng dưới các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khái quát có thể thấy rằng các nội dung này không tách rời mà đan xen, liên hệ chặt chẽ với nhau. Với mô hình tranh tụng, các chức năng buộc tội và bào chữa tham gia vào quá trình tố tụng với sự tuân thủ và áp dụng nguyên tắc tranh tụng để góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Quá trình tranh tụng trong TTHS bắt đầu khi xuất hiện sự buộc tội của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với một cá nhân cụ thể hoặc một số người xác định (thể hiện bằng việc ra Quyết định khởi tố bị can, Quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn, tạm giữ). Kể từ thời điểm này ở phía người bị buộc tội (Bị can, Người bị tạm giữ) xuất hiện sự bào chữa để chống lại sự buộc tội đó, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hay nói theo cách khác, tranh tụng chỉ bắt đầu khi xuất hiện hai đối trọng là bên buộc tội và bên bào chữa với hai chức năng tương ứng là chức năng buộc tội và chức năng bào chữa. Quá trình tranh tụng được xem là kết thúc khi có Bản án hay Quyết định của Tòa án về vụ án đã có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị.
Do đó cần khẳng định: Hoạt động TTHS là hoạt động gắn kết chặt chẽ của ba chức năng: buộc tội, bào chữa và xét xử. Bào chữa chỉ xuất hiện khi có sự buộc tội và bào chữa được thực hiện để góp phần cho công tác xét xử đưa ra được một phán quyết khách quan, chính xác, đúng pháp luật. Có buộc tội thì có xét xử và ngược lại chỉ xét xử khi có sự cáo buộc. Trong TTHS nếu có buộc tội mà không có bào chữa thì hoạt động tố tụng sẽ mang tính áp đặt, thiếu tính thuyết phục, thiếu tính dân chủ. Từ đây có thể thấy rằng, sự tồn tại của tranh tụng trong TTHS là một thực tế khách quan, nó đòi hỏi được thừa nhận trên thực tế và được ghi nhận trong Luật. Khi chính thức được ghi nhận thì tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của TTHS. Nguyên tắc này đòi hỏi sự bình đẳng giữa các chức năng buộc tội và gỡ tội.
Chức năng buộc tội còn gọi là “chức năng truy cứu trách nhiệm hình sự, là một dạng hoạt động tố tụng nhằm phát hiện kẻ phạm tội, chứng minh lỗi của người đó, bảo đảm phán xử và hình phạt đối với người đó”. Chức năng này không chỉ thuộc về Viện kiểm sát mà trước hết nó thuộc về Cơ quan điều tra, Bị hại (trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu cuả Bị hại) và Đại diện hợp pháp cũng như Người bảo vệ quyền lợi của họ.
Về nội dung, chức năng buộc tội bao gồm tổng thể những hoạt động của các chủ thể thuộc bên buộc tội. Đầu tiên là khởi tố bị can, tiếp theo là hoạt động điều tra, truy tố bị can bằng bản cáo trạng và cuối cùng là chứng minh cáo trạng đó đúng trước Tòa án. Có thể chia buộc tội thành hai phần là buộc tội về nội dung và buộc tội về tố tụng. Buộc tội về nội dung (đối tượng chứng minh) là việc đưa ra những cáo buộc đối với cá nhân cụ thể về tội phạm và hành vi của người bị buộc tội có dấu hiệu của tội phạm đó. Buộc tội về tố tụng là tổng hợp các hành vi tố tụng cụ thể nhằm thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ để chứng minh sự đúng đắn của buộc tội về nội dung đã đưa ra đối với người bị buộc tội. Buộc tội về nội dung là cơ sở định hướng cho buộc tội về tố tụng và ngược lại, buộc tội về tố tụng giúp cho buộc tội về nội dung có đủ căn cứ pháp lý và thực tiễn.
Về tính chất, chức năng buộc tội có thể được thực hiện dưới các hình thức: tư tố (tức là do bị hại hoặc Người đại diện hợp pháp tự truy tố Bị cáo), tư công tố và công tố (do cơ quan có thẩm quyền truy tố). Theo pháp luật Việt Nam, chức năng buộc tội có thể được thực hiện dưới một trong ba hình thức nêu trên hoặc được thực hiện đồng thời cả ba hình thức.
Về thời điểm bắt đầu và kết thúc chức năng buộc tội xuất hiện từ khi có cơ quan có thẩm quyền ra Quyết định khởi tố bị can (buộc tội chính thức). Có một số trường hợp đặc biệt thì chức năng buộc tội xuất hiện sớm hơn khi cơ quan có thẩm quyền ra Quyết định tạm giữ người bị tình nghi (buộc tội không chính thức thuộc trường hợp bắt khẩn cấp, bắt quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã (Điều 110, 111, 112, 117 BLTTHS năm 2015). Khi kết thúc thủ tục tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm thì chức năng buộc tội cũng kết thúc. Trong một số trường hợp ngoại lệ, chức năng buộc tội kết thúc sớm hơn khi những căn cứ của việc buộc tội không còn và dẫn đến hệ quả là Cơ quan điều tra đình chỉ điều tra hoặc Viện kiểm sát hay Tòa án đình chỉ vụ án.
Về vai trò, chức năng buộc tội là một trong những chức năng cơ bản của TTHS, là nhân tố làm phát sinh quá trình tranh tụng, đối trọng với chức năng bào chữa và là tiền đề cần thiết cho chức năng xét xử. Không có buộc tội thì sẽ không có hoạt động tố tụng và hoạt động tố tụng đó sẽ không có định hướng.
Hiến pháp 2013 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”.
BLTTHS năm 2015 quy định:
Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bị buộc tội, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án hình sự do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật này, trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ trước Tòa án. Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và các tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.
Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
Vì vậy, tranh tụng trong TTHS là “Hoạt động do các chủ thể có chức năng đối trọng nhau (buộc tội và bào chữa) thực hiện; dựa trên nguyên tắc bình đẳng trong việc đưa ra, bảo vệ chứng cứ, lập luận của mình và phản bác chứng cứ, lập luận của đối phương, nhằm góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án; được bắt đầu từ khi có Quyết định khởi tố bị can và kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không bị kháng cáo, kháng nghị”.
Qua các lý lẽ nêu trên, hoạt động tranh tụng tại phiên tòa có thể được hiểu như sau: “Tranh tụng tại phiên tòa là hình thức tố tụng mà trong đó
2. Đặc điểm hoạt động tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án Hình sự:
Thứ nhất, tranh tụng tại phiên tòa được tiến hành với nhiều cách thức khác nhau để khẳng định tính pháp lý của chứng cứ và nội dung vụ án. Tố tụng tranh tụng là hệ thống tố tụng mà Tòa án là cơ quan xét xử và tiến hành tố tụng chính. Chỉ có Tòa án mới là chủ thể tiến hành tố tụng với ý nghĩa đầy đủ nhất theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Vì vậy, mọi điều tra của Luật sư và của Cơ quan điều tra có thể được tiến hành theo nhiều cách khác nhau, với những phương pháp thu thập chứng cứ khác nhau, nhưng đều phải được kiểm chứng tại phiên tòa và thông qua sự xem xét đánh giá của Hội đồng xét xử thì mới được công nhận về mặt pháp lý và được phục vụ cho vụ án, khi đó chứng cứ do các bên cung cấp mới có ý nghĩa đối với phán quyết của Tòa án. Chính vì việc điều tra tại phiên tòa là chủ yếu, thông qua việc xem xét đánh giá chứng cứ do các bên đưa ra nên phiên tòa theo thủ tục tố tụng tranh tụng thường rất dài và triệu tập nhiều nhân chứng.
Thứ hai, tranh tụng tại phiên tòa hình thành hai bên với những lợi ích đối kháng rõ rệt – bên buộc tội và bên bị buộc tội. Trong tranh tụng, Kiểm sát viên và Luật sư hoàn toàn bình đẳng với nhau, họ được pháp luật trao những quyền tương ứng với chức năng để có thể điều tra độc lập và thu thập chứng cứ phục vụ cho công việc của mình. Kiểm sát viên dưới danh nghĩa là người đại diện cho quyền lợi của Nhà nước đưa ra các quan điểm, các lập luận, các chứng cứ để buộc tội Bị cáo. Còn bên bị buộc tội là Bị cáo và Luật sư cũng dùng mọi lý lẽ, phương tiện được luật pháp cho phép để phản bác lại. Hai bên sẽ trực tiếp, liên tục chất vấn và trả lời chất vấn nhau công khai tại phiên tòa để làm rõ những vấn đề. Tất cả các tình tiết, các chứng cứ mà Tòa án áp dụng để ra bản án đều phải được các bên tranh tụng tại phiên tòa.
Thứ ba, Thẩm phán giữ vai trò của người trọng tài. Phần tranh tụng chứng cứ đều do các bên trực tiếp đưa ra trong quá trình tranh tụng giữa Kiểm sát viên và Bị cáo, Luật sư. Thẩm phán chỉ kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của các chứng cứ này. Thẩm phán có vai trò chính trong việc làm sáng tỏ nội dung vụ án tại phiên tòa. Thẩm phán có thể sẽ trực tiếp chất vấn nếu như lời khai của bị cáo còn có mâu thuẫn hay Bị cáo chối tội. Trong phần tranh tụng mỗi bên có quyền đặt câu hỏi trực tiếp cho bên kia cũng như cho những người tham gia tố tụng khác. Trong nhiều trường hợp họ có quyền ngắt lời bên kia, phản đối lại các ý kiến mà bên kia vừa đưa ra nhưng Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa có quyền chấp nhận hoặc không chấp nhận các vấn đề mà các bên đưa ra tranh luận.
Thứ tư, tranh tụng có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân (trừ án phúc thẩm) tham gia phiên tòa và quyết định cả về việc Bị cáo có tội hay không có tội, quyết định cả về việc lượng hình đối với Bị cáo, ở thủ tục tố tụng thẩm vấn Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa có địa vị pháp lý ngang với Hội thẩm nhân dân.