Lịch sử 9 Bài 31 tập hợp những chi tiết lịch sử về tình hình Việt Nam sau năm đầu đại thắng mùa xuân năm 1975. Sau đây là Tổng hợp sơ đồ tư duy Lịch sử 9 Bài 31 đầy đủ và chi tiết để các bạn học sinh tham khảo.
Mục lục bài viết
1. Tổng hợp các sơ đồ tư duy Lịch sử 9 Bài 31 đầy đủ:
2. Tình hình Việt Nam sau năm 1975:
Sau đại thắng mùa xuân 1975, tình hình Bắc – Nam Việt Nam đã có những thay đổi lớn. Theo Hiệp định Paris về Việt Nam, hai miền Việt Nam được công nhận là hai quốc gia độc lập và có quyền tự quyết về tương lai của mình. Tuy nhiên, chính quyền Sài Gòn không tuân thủ hiệp định và tiếp tục nhận sự hậu thuẫn của Mỹ để duy trì sự bất bình đẳng và áp bức nhân dân miền Nam. Để đáp lại, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã tiến hành các cuộc kháng chiến quyết liệt để giành lại quyền tự do và độc lập cho dân tộc. Sau nhiều năm chiến đấu anh dũng, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã giành được chiến thắng lịch sử vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi chiếm được Dinh Độc Lập và buộc chính quyền Sài Gòn phải đầu hàng. Đây là ngày mà cả nước Việt Nam được thống nhất và hoàn toàn giải phóng khỏi sự can thiệp của Mỹ. Sau đó, vào ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Hiến pháp mới và tuyên bố thành lập nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với thủ đô là Hà Nội. Từ đó, Bắc – Nam Việt Nam đã trở thành một quốc gia duy nhất, với một chính phủ, một quân đội và một chủ quyền. Những năm sau đó, Việt Nam đã phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức trong việc tái thiết đất nước, nhưng cũng đã có những thành tựu to lớn trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa và quốc tế.
* Miền Bắc:
– Thuận lợi:
+ Trong 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội (1954 – 1975), miền Bắc đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong cơ sở vật chất, kỹ thuật, khoa học, giáo dục, văn hóa, y tế và phúc lợi xã hội.
+ Miền Bắc cũng có Quốc hội là cơ quan cao nhất của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
– Khó khăn:
+ Bị cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ tàn phá nặng nề, gây ra những hậu quả lâu dài về môi trường, kinh tế và con người.
+ Phải đối phó với những khó khăn do tình hình thế giới biến động và thiếu thốn nguồn lực.
* Miền Nam:
– Thuận lợi:
+ Miền Nam đã hoàn toàn giải phóng, chế độ thực dân mới của Mỹ cùng bộ máy chính quyền tay sai Sài Gòn ở trung ương bị sụp đổ.
+ Có Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Hội đồng cố vấn của Chính phủ để điều hành các hoạt động chính trị, kinh tế và xã hội.
– Khó khăn:
+ Cơ sở của chế độ thực dân ở địa phương cùng di hại xã hội vẫn tồn tại.
+ Nền kinh tế nông nghiệp vẫn lạc hậu, sản xuất nhỏ, phân tán, phát triển mất cân đối, lệ thuộc vào viện trợ từ bên ngoài.
+ Miền Nam cũng phải khôi phục lại những thiệt hại do chiến tranh gây ra và thực hiện sự thống nhất về mặt nhà nước với miền Bắc.
+ Ngoài ra, miền Nam còn phải đối phó với âm mưu của quân Pôn pốt ở Campuchia, đã xâm lược biên giới Tây Nam của nước ta và gây ra những vụ thảm sát dã man.
Tóm lại, tình hình Bắc – Nam Việt Nam sau đại thắng mùa xuân 1975 là một sự kết hợp giữa những thuận lợi và khó khăn. Hai miền đã cùng nhau vượt qua những thách thức để xây dựng một Việt Nam mới: độc lập, tự do và đi lên chủ nghĩa xã hội.
3. Khắc phục hậu quả chiến tranh và khôi phục kinh tế:
– Ở miền Bắc, sau khi kết thúc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ, Đảng và Nhà nước ta chủ trương khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời chi viện cho miền Nam tiếp tục đấu tranh giải phóng. Các biện pháp khắc phục hậu quả chiến tranh bao gồm: sửa chữa và xây dựng lại các công trình giao thông, thủy lợi, công nghiệp, nông nghiệp; tái định cư cho nhân dân bị di dời; chăm lo sức khỏe và đời sống cho những người bị thương, bệnh, tàn tật do chiến tranh; xử lý môi trường ô nhiễm do chất độc da cam. Các biện pháp khôi phục và phát triển kinh tế bao gồm: thực hiện các kế hoạch 5 năm và 6 tháng; tăng cường công nghiệp hóa, hiện đại hóa; mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trong khối XHCN và các nước láng giềng; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; thực hiện chính sách đổi mới đất đai; khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế.
– Ở miền Nam, sau khi giành được thắng lợi hoàn toàn vào ngày 30/4/1975, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng lại miền Nam theo con đường chủ nghĩa xã hội. Các biện pháp khắc phục hậu quả chiến tranh bao gồm: tiêu trừ chế độ cũ, giải giọt binh lính Mỹ và các lực lượng vũ trang Sài Gòn; thu hồi vũ khí, bom mìn còn sót lại; thu hồi tài sản công của Mỹ và Sài Gòn; tái thiết các công trình giao thông, thủy lợi, công nghiệp, nông nghiệp; tái định cư cho nhân dân bị di dời; chăm lo sức khỏe và đời sống cho những người bị thương, bệnh, tàn tật do chiến tranh; xử lý môi trường ô nhiễm do chất độc da cam. Các biện pháp khôi phục và phát triển kinh tế là: thực hiện các kế hoạch 5 năm và 6 tháng; xây dựng lại các ngành công nghiệp trọng điểm; phát triển nông nghiệp theo hướng cơ giới hóa; mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trong khối XHCN và các nước láng giềng; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; thực hiện chính sách đổi mới đất đai; khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế.
4. Hoàn thành thống nhất đất nước Việt Nam (1975 – 1976):
– Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam vào ngày 30/4/1975, Việt Nam đã thống nhất về mặt lãnh thổ, nhưng vẫn còn hai chính quyền khác nhau ở hai miền. Để hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước, Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 24 (tháng 9/1975) đã đề ra nhiệm vụ tổ chức hội nghị hiệp thương chính trị giữa hai miền và tiến hành tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung cho cả nước.
– Từ ngày 15 đến ngày 21/11/1975, Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất được tổ chức tại Sài Gòn, với sự tham gia của đại biểu của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hội nghị đã nhất trí hoàn toàn việc thống nhất hai miền trong một Nhà nước chung là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có chủ quyền toàn vẹn và độc lập trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Hội nghị cũng đã thông qua Hiến pháp tạm thời của Nhà nước mới và quyết định tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội vào ngày 25/4/1976.
– Ngày 25/4/1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa VI được tiến hành trong cả nước, với sự tham gia của hàng triệu cử tri. Đây là cuộc bầu cử đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có sự góp mặt của cả hai miền Bắc và Nam. Kết quả bầu cử cho thấy sự đồng lòng của nhân dân cả nước với Đảng và Nhà nước mới. Quốc hội khóa VI đã họp phiên đầu tiên vào ngày 24/6/1976 và thông qua các quyết định quan trọng như: bầu Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch Nước, Phạm Văn Đồng làm Thủ tướng Chính phủ, Trường Chinh làm Chủ tịch Hội đồng Quốc gia; thông qua Hiến pháp mới của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam; thông qua Nghị quyết về việc đổi tên thành phố Sài Gòn – Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, quá trình hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã được hoàn tất.
Công cuộc hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã diễn ra trong hai giai đoạn chính: giai đoạn từ sau ngày 30/4/1975 đến trước Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất đất nước (11/1975) và giai đoạn từ sau Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất đất nước (11/1975) đến trước kì họp thứ nhất của Quốc hội khoá VI (7/1976). Công cuộc này đã khép lại một trang sử oai hùng của dân tộc Việt Nam, mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển của xã hội chủ nghĩa.