Tông dồ là một cụm từ mà rất nhiều người đang thắc mắc? đây là để chỉ về nghề nghiệp, chức danh gì trong công giáo, nếu bạn cũng đang thắc mắc vậy hãy đọc bài viết dưới đây ngay nhé.
Mục lục bài viết
- 1 1. Tông đồ là gì?
- 2 2. 12 Vị tông đồ:
- 2.1 2.1. Thánh Phê rô tông đồ:
- 2.2 2.2.Thánh An rê tông đồ:
- 2.3 2.3. Thánh Gia cô bê tông đồ:
- 2.4 2.4. Thánh Gio an tông đồ:
- 2.5 2.5. Thánh Phi lip phê tông đồ:
- 2.6 2.6. Thánh Gia cô bê hậu tông đồ:
- 2.7 2.7. Thánh Ba tô lô mê ô tông đồ:
- 2.8 2.8. Thánh Tô ma tông đồ:
- 2.9 2.9. Thánh Mattheu tông đồ:
- 2.10 2.10. Thánh Simmon tông đồ:
- 2.11 2.11. Thánh Giu đa Tadeo tông đồ:
- 2.12 2.12. Thánh Giu đa Itcariot tông đồ:
- 3 3. Tông đồ đã làm gì?
1. Tông đồ là gì?
Các bản sắc văn hóa đa dạng của thế giới tạo nên một nền văn hóa độc đáo. Có lẽ nhiều người đã nghe nói đến các tôn giáo lớn trên thế giới như Phật giáo, Công giáo, Hồi giáo… Nhưng chúng tôi xin giới thiệu một trong những tôn giáo lớn nhất hiện nay, đó là Thiên chúa giáo. Nhắc đến Thiên Chúa giáo, người ta sẽ nghĩ ngay đến vị thần đứng đầu là Chúa Giêsu.
Nếu giải thích cụm từ “Thiên Chúa giáo” theo nghĩa thuần Việt thì được hiểu là đạo của Thiên Chúa, mà ở nước ta gọi là đạo Công giáo. Cơ đốc giáo ra đời cách đây khoảng 2.000 năm khi Chúa Giê-su rao giảng lần đầu tiên ở tuổi 30. Ngày càng có nhiều người cải đạo với những điều tốt đẹp mà nền văn hóa này mang lại.
Các môn đệ theo Ngài truyền đạo và đem Tin Mừng cho thế gian được gọi là tông đồ. Các tông đồ là những người đầu tiên được sai đi khi tách nghĩa của hai từ này ra và được gọi là 12 tông đồ. Môn đệ là những người cùng chung một thầy hay cùng một tông đồ.
Những người theo đạo Cơ đốc biết rất rõ về các sứ đồ của Chúa Giê-su, nhưng một số người ngoại đạo lại khá xa lạ với các sứ đồ này. Các tông đồ được tôn vinh cho đến ngày nay khi nhắc đến các ngài, người ta thường thấy hãnh diện về đạo Chúa và về Thầy Giêsu của mình, mặc dù Người đã bỏ thế gian để về với Chúa.
“Việc tông đồ” hay ” hoạt động tông đồ”, chúng ta cần hiểu nghĩa của từ “tông đồ”. Thông thường các tông đồ được hiểu là những môn đệ được Chúa Giêsu tuyển chọn. Ý kiến này khá rõ khi phân tích từ Hán Việt “tông đồ”, trong đó “đệ tử” có nghĩa là học trò, đệ tử. Tuy nhiên, chúng ta đừng quên rằng “tông đồ” được dùng để dịch từ tiếng Latinh “apostolus”, hay chính xác hơn, từ gốc Hy Lạp apostolos. Chính nó, từ này có nghĩa là: người gửi đi, gửi đi để làm gì đó. Trong Tân Ước, chúng ta thấy từ này đôi khi được sử dụng theo nghĩa rộng, áp dụng cho những người được sai đi, những lúc khác như một đặc sủng được ban cho Giáo hội, chẳng hạn như trong 1 Cô-rinh-tô, đôi khi được áp dụng một cách hẹp hòi. Trong lịch phụng vụ chúng ta mừng kính 14 Tông đồ, nghĩa là thêm thánh Phaolô và thánh Barnaba. Dù sao, thường dựa trên từ Hy Lạp, các tông đồ được hiểu là những người được Chúa Kitô Phục Sinh sai đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân, như chúng ta đọc ở cuối cả ba Tin Mừng Nhất Lãm.
2. 12 Vị tông đồ:
2.1. Thánh Phê rô tông đồ:
Đây là vị thánh tông đồ nổi tiếng trong kinh thánh và được nhắc đến nhiều nhất trong 12 tông đồ. Ông được biết đến là một vị thánh xuất thân từ một ngư phủ với bản chất tốt lành, ông được Chúa Giêsu tiến cử làm thủ lĩnh của 12 tông đồ. Ông là một nhà truyền giáo đến thành phố Rome và là giám mục đầu tiên ở vùng đất ngoại giáo này.
2.2.Thánh An rê tông đồ:
Cùng với anh là Phêrô, Anrê là người em đã cùng cha đi tìm đường Chúa dưới ánh sáng của Thánh Giêsu. Không phải anh của ông, nhưng ông là môn đệ đầu tiên được Chúa Giêsu chấp nhận. Theo nhiều tài liệu còn sót lại, sau khi Chúa Giê-su chết, ông đã đến Hy Lạp để truyền đạo.
2.3. Thánh Gia cô bê tông đồ:
Ông nổi tiếng là người có tính cách bộc trực, gây sốc, nhưng sau khi theo Chúa Giê-xu, ông đã được Ngài soi dẫn và rao giảng. Ông là vị tử đạo đầu tiên và được coi là nhân chứng vĩ đại nhất trong lịch sử.
2.4. Thánh Gio an tông đồ:
Ông là anh trai của Thánh James và là anh em tôn giáo của Chúa Giêsu. Ông là tông đồ trẻ nhất và cũng là người được Chúa Giêsu yêu mến nhất trong tất cả các tông đồ của mình.
2.5. Thánh Phi lip phê tông đồ:
Chúa Giêsu đã chọn ông là một trong những tông đồ đầu tiên của mình. Điều đó khiến anh vô cùng hạnh phúc.
2.6. Thánh Gia cô bê hậu tông đồ:
Với nhiệm vụ truyền giáo và làm chứng cao cả, ngài là một trong 12 tông đồ đầu tiên. Ông là tông đồ trung thực nhất của Chúa Giêsu.
2.7. Thánh Ba tô lô mê ô tông đồ:
Ông cũng là người được Chúa Giêsu nhận làm môn đệ. Ông rao giảng tin mừng ở Ấn Độ và nhiều nơi khác.
2.8. Thánh Tô ma tông đồ:
Anh là một vị thánh được biết đến với biệt danh bi quan nhất, con người anh lúc nào cũng u uất, buồn bã. Sau đó, anh trở thành người tử vì đạo khi rao giảng tin mừng ở Ấn Độ.
2.9. Thánh Mattheu tông đồ:
Vốn là một người thu thuế bị mọi người ghét bỏ, Chúa Giêsu đã nhìn thấy sự lương thiện của anh ta và phong anh ta làm thánh. Ông là người đã viết phúc âm và chọn sự tử vì đạo để minh chứng cho điều đó.
2.10. Thánh Simmon tông đồ:
Thánh Simon thuộc về một đảng phái chính trị. Sau đó, anh dành hết tâm hồn cho Chúa Giêsu và bắt đầu rao giảng về Người.
2.11. Thánh Giu đa Tadeo tông đồ:
Đây là vị thánh can đảm trong 12 tông đồ. Anh ấy cũng là một vị thánh của sự tuyệt vọng vì mọi người đến với anh ấy khi họ tuyệt vọng nhất.
2.12. Thánh Giu đa Itcariot tông đồ:
Đây có lẽ là vị tông đồ bị ghét nhất vì đã bán đứng Chúa Giêsu. Sau đó, anh cũng quyết định tự tử vì quá ân hận và tội lỗi.
3. Tông đồ đã làm gì?
Khái niệm “tông đồ” dần dần được mở rộng. Vào thời khai sinh Giáo Hội, quả thực công việc của các tông đồ là rao giảng Tin Mừng, như chúng ta đọc thấy trong sách Công vụ Tông đồ, chẳng hạn như trong lời kêu gọi của Thánh nhân để thay thế Giuđa Íchcariốt (chương 1, câu 22), hoặc trước cuộc bầu chọn bảy người đàn ông để phục vụ trong việc phân phát thức ăn (chương 6, câu 2). Nhưng đối với thánh Phaolô, ngoài việc loan báo Tin Mừng, việc tông đồ còn bao gồm việc thành lập và điều hành các hội dòng. Dù sao, như chúng ta biết, thế hệ các tông đồ đã qua đi, và các ngài phải chọn những người sẽ tiếp tục sứ mệnh của mình, làm chứng cho Đức Kitô bằng lời rao giảng và thông ban ơn cứu độ, chỉ để kiểm soát cộng đồng. Nói cách khác, các tông đồ đã truyền sứ vụ của mình cho các giám mục, những người được gọi theo truyền thống là “những người kế vị các tông đồ”.
Như tôi vừa nói, khái niệm “tông đồ” đang dần được mở rộng. Hơn nữa, khái niệm “kế vị tông đồ” được hiểu theo nhiều cách. Trước hết, về mặt “kế vị tông đồ”, điều quan trọng cần lưu ý là sự khác biệt giữa một bên là Giáo hội Công giáo và Chính thống giáo, và bên kia là Giáo hội Tin lành. Giáo hội Tin lành cho rằng Giáo hội nói chung kế thừa các tông đồ, đặc biệt là bằng cách trung thành tuân theo lời dạy của các tông đồ. Các Giáo hội Công giáo và Chính thống giáo cho biết thêm rằng sự kế vị cũng bao gồm các giám mục, những người nắm giữ chức vụ cai quản giáo đoàn và ban các bí tích. Tuy nhiên, tôi không muốn đi sâu vào vấn đề này, để dành thì giờ bàn về một khía cạnh khác, đó là việc tông đồ. Trong những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo, công việc quan trọng nhất của các tông đồ là rao giảng Tin Mừng. Điều này không khó hiểu, vì nó dựa trên các bản văn của Tân Ước. Nhưng cho đến khi đời sống đan tu ra đời (từ cuối thế kỷ thứ ba), nhiều khía cạnh của các tông đồ đã được làm nổi bật. Thánh Anthony, ông tổ tu viện của Ai Cập, tuyên bố noi gương các tông đồ khi lui vào sa mạc. Điều này thoạt nghe có vẻ nghịch lý, vì Đấng Christ đã sai các sứ đồ thánh của Ngài đi khắp nơi để giảng dạy cho muôn dân. Tuy nhiên, trong bài viết về Thánh Antôn, Giám mục Athanasius giải thích rằng bắt chước các tông đồ không phải là rao giảng, nhưng là theo Chúa Giêsu bằng cách từ bỏ của cải, chấp nhận cuộc sống khó nghèo, dựa trên lời mời gửi đến chàng thanh niên. Khi đời sống cộng đoàn phát triển, chúng ta đọc lại trong thánh thư (chẳng hạn như Pacomio, Basil, Augustine) một ý tưởng khác về việc bắt chước các tông đồ. Các tông đồ không chỉ bán của cải để theo Chúa Kitô, nhưng các ông còn thành lập một cộng đoàn sống quanh Chúa. Điều này càng được thể hiện rõ trong cộng đoàn giáo hội sơ khai ở Giêrusalem, nơi mọi người sống hòa thuận, yêu thương nhau, đồng lòng ngợi khen Thiên Chúa và chia sẻ với nhau mọi của cải vật chất và tinh thần. Như vậy, chúng ta thấy vào các thế kỷ IV-V trở đi, người tu sĩ quan niệm rằng khi đi rao giảng Tin Mừng không phải bắt chước các tông đồ, nhưng trước hết phải từ bỏ mọi tư cách môn đệ, và yêu thương nhau.