Chùm thơ hai-cư Nhật Bản đem đến cho bạn đọc những ấn tượng về hình thức ngắn gọn, giản dị nhưng chan chứa những ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Mượn hình ảnh của tự nhiên, vạn vật và bằng cách gợi ta độc đáo, lời ít ý nhiều, tác giả đã gửi gắm tình yêu thiên nhiên, lẽ sống của con người với chính bản thân mình và cuộc đời. Dưới đây là Tóm tắt nội dung chính Chùm thơ Hai-cư Nhật Bản ngắn gọn.
Mục lục bài viết
1. Tóm tắt nội dung chính Chùm thơ Hai-cư Nhật Bản ngắn gọn:
Mẫu 1:
Tác phẩm ‘Chùm thơ haicư Nhật Bản’ tạo cho người đọc ấn tượng về hình thức ngắn gọn, giản dị nhưng đầy ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Mượn hình ảnh của thiên nhiên và vạn vật, đồng thời nhắc nhở chúng ta một cách độc đáo ít chữ, nhiều ý, tác giả bày tỏ tình yêu thiên nhiên và lẽ phải của con người khi sống với chính mình và cuộc đời.
Mẫu 2:
Chùm thơ haicư Nhật Bản ghi lại những phong cảnh, đồ vật, những sự việc cụ thể, giản dị trong những khoảnh khắc hiện thực chợt hiện ra trước mắt nhà thơ. Nó thể hiện triết lý Thiền ở các khía cạnh hài hòa, vận động, biến đổi, vạn vật bình đẳng, tình yêu quê hương, tình yêu Tổ quốc, tình người… Những hình ảnh được sử dụng trong bài thơ đều mang ý nghĩa tượng trưng. Hoạt động của con người (hình ảnh con ốc sên leo núi Phú Sĩ), nỗi buồn (đôi cánh quạ đậu trên cành khô)…
Mẫu 3:
Tác phẩm ‘Chùm thơ haicu nhật bản’ gồm ba bài thơ. Các tác g giả không chỉ miêu tả bằng thể thơ ngắn gọn hình ảnh thiên nhiên và vạn vật mà còn thể hiện tình yêu thiên nhiên và lẽ sống của con người đối với chính nó.
2. Khái quát văn bản Chùm thơ haicư Nhật bản:
2.1. Bài thơ 1 – Hình ảnh con quạ:
– Cảm xúc của con người một chiều thu:
+ Hình trung tâm: “Con quạ” gợi sự buồn bã, phiền muộn.
+ Vị trí: Cành khô.
+ Thời gian: Chiều thu.
=> Hình ảnh thiên nhiên tối tăm, thiếu sức sống.
– Mối quan hệ không gian – thời gian giữa hình ảnh trung tâm và bài viết tương tự. “Con quạ” gợi lên nỗi buồn “Cành khô” gợi lên một khung cảnh tối tăm và khô héo. “Chiều mùa thu” gợi lên bóng tối và sự im lặng. Hình ảnh hài hòa tạo nên hình ảnh một chiều thu u tối cô đơn, thiếu sức sống.
→ Khoảnh khắc một buổi chiều thu với hình ảnh những cành cây khô và những chú quạ gợi lên trong người đọc cảm giác cô đơn, nhỏ bé, buồn bã trong một không gian trống vắng, tĩnh lặng.
2.2. Bài thơ 2 – Hình ảnh bông hoa Asagao:
– Bài thơ của nhà thơ Chiyo xoay quanh việc phát hiện ra bông hoa Asagao được quấn quanh một sợi dây gầu trong một chiếc xô cạnh giếng. Trước cái đẹp, trước cuộc sống mà nhà thơ trân trọng, ông quyết định ‘xin nước nhà bên’, để cái đẹp ấy luôn hiện diện, vì ông không muốn phá hủy nó.
→ Bài thơ của Chiyo miêu tả một thiên nhiên tươi đẹp tràn đầy sức sống, với hình ảnh bông hoa Asagao treo trên giếng có dây xô quấn quanh. Thái độ không muốn động vào dây ảnh hưởng cảnh đẹp mà “hỏi thăm nước láng giềng” của tác giả thể hiện ý nghĩa triết học trong cách ứng xử của con người đối với thiên nhiên: thiên nhiên tươi đẹp. Và con người phải có thái độ trân trọng vẻ đẹp của thiên nhiên.
2.3. Bài thơ 3 – Hình ảnh chú ốc:
– Hình ảnh “ốc’ và “núi Phú Sĩ” có mối quan hệ trái ngược nhau. Nếu “ốc’ gắn liền với một con vật nhỏ bé và chậm chạp thì “Núi Phú Sĩ” gắn liền với một không gian rất cao và rộng rãi. “Ốc” ở trạng thái chuyển động nhẹ nhàng, còn “Núi Phú Sĩ” ở trạng thái tĩnh lặng.
– Hành trình “chậm” của con ốc cũng là hành trình của một người đàn ông cố gắng chinh phục những đỉnh cao của cuộc đời. Không có cách khắc phục nhanh chóng để thành công. Bạn phải thực hiện từng bước một cách cẩn thận, tỉ mỉ và cố gắng hết sức. Bạn có thể tích lũy được nhiều kinh nghiệm bằng cách thực hiện những bước đi chậm rãi.
3. Cảm nhận sau khi đọc xong văn bản Chùm thơ haicư Nhật Bản:
Thơ Haicư đóng một vai trò rất quan trọng trong văn học Nhật Bản. Thể thơ này ra đời và phổ biến trong thời kỳ phục hưng văn học thế kỷ 17, 18 và phù hợp với đời sống văn hóa Nhật Bản. Thơ Haiku ban đầu phát sinh từ những thể thơ truyền thống như những bài hát dài, những bài hòa âm và những bài hát ngắn. Sau đó, một số bài thơ được chia độc lập thành các thể thơ này và chúng tồn tại rất lâu mà không có tên chính thức cho đến khi nhà thơ Shiki (1867-1902) gọi chúng là haiku vào cuối thế kỷ 19, và chúng vẫn tiếp tục tồn tại cho đến tận bây giờ.
Điểm đặc biệt nhất của haiku là cấu trúc súc tích, gồm 17 âm tiết (số lượng âm tiết có thể thay đổi tùy theo nguyên văn tiếng Nhật, bản dịch latinh và bản dịch tiếng Việt) được sắp xếp theo thứ tự 5-7-5. Quy luật cấu trúc súc tích đòi hỏi nhà thơ phải lựa chọn, chắt lọc những từ ngữ cô đọng cần thiết để thể hiện tâm trạng khi viết về thiên nhiên, con người, tôn giáo, triết học tự nhiên. …
Trong vườn thơ Nhật Bản, haiku gắn liền với những cái tên tiêu biểu như Buson, Chora, Chigo, Kikaku, Basho. Haiku lần đầu tiên được xuất bản trong sách giáo khoa văn học cho học sinh lớp 10 THPT ở nước ta. Trong đó là một số bài thơ tiêu biểu nhất của nhà thơ Baso. Tua chỉ là phần bổ trợ nhưng sách giáo khoa và sách hướng dẫn có cấu trúc câu hỏi khá rõ ràng, giúp bài học trở nên dễ hiểu. Tuy nhiên, tác giả bài viết này rất hiểu và muốn trao đổi một số điều với các đồng nghiệp gần xa. Xin lưu ý rằng tác giả không có ý định giới thiệu điều này dưới dạng bài giảng mà chỉ tập trung vào đặc điểm nghệ thuật của tác phẩm làm điểm nhấn và sẽ trân trọng mọi phản hồi có giá trị. Ngoài những ý chính về nghệ thuật được tác giả trình bày trong sách giáo viên: biện pháp thủ pháp tượng trưng, triết lý, thẩm mỹ và ngôn ngữ, chùm thơ haiku còn có những nét nghệ thuật tuyệt vời:
Đối với hầu hết tám bài thơ trong sách giáo khoa, một số điểm tương đồng trở nên rõ ràng khi xem xét sơ bộ ban đầu. Thông thường, đó là một kỹ thuật sử dụng các phương pháp tương phản và các cặp phạm trù đối lập nhau, chẳng hạn như vũ trụ và con người, vô hạn và hữu hạn, không gian và thời gian, cái hữu hình và cái vô hình. Có – không, đen – trắng, tĩnh – động, tối – sáng, nhất thời – vĩnh cửu… Đó là sự tương phản. Ngược lại, các nhà thơ lại đặc biệt chú trọng đến những chủ đề nêu lên trong bài thơ, đồng thời đây cũng là một cách giải mã, khám phá bài thơ theo một hướng thơ riêng.
‘Trên cành khô
cánh quạ đậu
đêm thu.’
Sự tương phản giữa tiếng quạ, cành khô và màn đêm thu tạo nên một khung cảnh thật u ám. Vào một đêm mùa thu, một con quạ đậu trên cành khô trụi lá, đưa con người vào thế giới tăm tối hoang vắng. Mặt khác, bài thơ này không chỉ nói lên nỗi buồn mà còn nói lên sự tương phản giữa màu đen của con quạ nhỏ với màn đêm bao la, cô độc, nơi người ta cảm thấy mình nhỏ bé trước một không gian rộng lớn…
Bên cạnh đó, tác giả Chiyo đã viết như sau:
‘A! Hoa Asagao
dây gầu vương hoa bên giếng
đành xin nước nhà bên.’
Có thể thấy, chất liệu dùng để sáng tác hình ảnh của bài thơ rất đơn giản. Đằng sau mỗi âm tiết là nhận thức và trái tim nhạy cảm của nhà thơ trước ánh sáng huyền diệu của những cánh hoa buổi sớm mai. Nhà thơ không muốn phá hủy vẻ đẹp của nó (phải hỏi nhà bên). Điều đó cũng dễ hiểu, bởi thiên nhiên tươi đẹp và con người trân trọng, trân trọng những cái đẹp trong cuộc sống nhưng điều này không có gì lạ trong thơ ca truyền thống châu Á. Bài thơ này cũng là lời nhắn gửi đến mọi người, hãy trân trọng những vẻ đẹp xung quanh chúng ta.
Khi tạm biệt vẻ đẹp đóa chiêu nanh xinh đẹp của nghệ sĩ Chiyo và đi sâu vào kho tàng thơ haiku phong phú và rộng lớn, chúng tôi thấy mình đang ở trong thơ haiku của một trong bốn nhà thơ haicư lớn nhất của Nhật Bản Issa, viết về một con ốc háo hức leo lên đỉnh núi Phú Sĩ:
‘Chậm rì chậm rì
Kìa con ốc nhỏ
Trèo núi Fuji’
Nhà phê bình văn học nổi tiếng Belinsky từng nói: “Một nhà thơ, ngay cả nhà thơ vĩ đại nhất, cũng phải là một nhà tư tưởng”. Nhà thơ Issa sử dụng hình ảnh tượng trưng của các loài động vật để minh chứng rõ ràng cho điều này, ttruyền tải một thông điệp triết học và nhân văn sâu sắc.
Bằng cách sử dụng cụm từ ‘chậm rì, chậm rì’, nhà thơ miêu tả con ốc một cách chân thực và phù hợp. Nhưng trong sự “chậm chạp” này, chúng ta tìm thấy sự kiên nhẫn. Là một con ốc nhỏ di chuyển rất chậm. Nó không dừng lại, nó vẫn tiếp tục đi, dù chậm rãi. Sự chậm chạp này còn bao gồm cả vẻ ngoài nhỏ bé và đơn giản của những con ốc nhỏ. Việc sử dụng nghệ thuật tương phản cũng là một nét đặc sắc của thơ haiku. Đó là sự tương phản giữa cái vô hạn và cái hữu hạn, giữa hư vô và tồn tại, lớn và nhỏ, xa và gần, giữa con người và vũ trụ. Mà ở đây là sự tương phản giữa chú ốc nhỏ bé và dãy núi Phú Sĩ vĩ đại.
Haiku, một thể thơ nổi tiếng ở Nhật Bản và trên thế giới, có thể cực kỳ khó giải mã và khó hiểu. Trên đây là nhận xét chủ quan của tác giả về thơ haiku được xuất bản trong sách giáo khoa ngữ văn dành cho học sinh năm thứ nhất trung học phổ thông. Đây chỉ là bước đầu tiên để tìm hiểu và có thể còn nhiều điều chúng ta chưa biết. Thật mong quý độc giả tìm được tiếng nói sâu lắng hơn để đưa thể thơ này đến gần hơn với bản thân.
Dù nhiều thế kỷ đã trôi qua nhưng tôi tin tưởng mãnh liệt rằng thơ haiku Nhật Bản sẽ mãi mãi là viên ngọc quý đối với những ai yêu mến thơ ca “Xứ sở mặt trời mọc”.