Tiếng cười trào phúng nhằm giễu cợt, mỉa mai, châm biếm, đả kích những cái chưa hay, chưa đẹp hoặc cái tiêu cực, xấu xa nhưng mục đích cao nhất của nó là hướng tới cuộc sống tốt đẹp hơn. Tiếng cười trào phúng này được thể hiện rõ nét trong nền thơ ca của văn học Việt Nam. Dưới đây là tóm tắt một số giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng.
Mục lục bài viết
- 1 1. Tóm tắt một số giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng ngắn gọn:
- 2 2. Tóm tắt một số giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng hay nhất:
- 3 3. Tóm tắt một số giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng sâu sắc nhất:
- 4 4. Khái quát nội dung chính của văn bản “Một số giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng”:
- 5 5. Liên hệ tiếng cười trào phúng trong các tác phẩm thơ của văn học Việt Nam:
1. Tóm tắt một số giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng ngắn gọn:
Văn bản ‘Môt số giọng điệu tiếng cười trong Thơ trào phúng’ có đề cập đến những sắc thái cơ bản của tiếng cười như hài hước, mỉa mai – châm biếm hay phê bình, v.v.. Tiếng cười trong thơ trào phúng hay châm biếm rất cần thiết để xua đuổi cái ác, đưa mỗi người đến những giá trị cao đẹp hơn.
2. Tóm tắt một số giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng hay nhất:
Một số sắc thái cơ bản của tiếng cười trong thơ trào phúng có thể kể đến là: hài hước, mỉa mai – mỉa mai, phê phán… Hài hước là cách giễu cợt nhẹ nhàng những yếu tố khác thường, ngang ngược, phá vỡ những khuôn khổ quen thuộc. Châm biếm và mỉa mai là một cách gây cười bằng cách nêu ra những điều phi lý và không thể xảy ra theo cách có vẻ nghiêm túc và có thể chấp nhận được. Các bài đả kích thường có giọng điệu phủ nhận chủ đề một cách nghiêm khắc, thể hiện sự hiểu biết của người viết về cuộc sống và quan niệm nhân sinh của tác giả.
3. Tóm tắt một số giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng sâu sắc nhất:
Có thể nói, thơ trào phúng là một bộ phận đặc biệt của sáng tác văn học Việt Nam, đối tượng miêu tả của nó là sự bất toàn của con người và cuộc sống. Một số sắc thái cơ bản của tiếng cười trong thơ trào phúng: hài hước, mỉa mai – đả kích, phê bình… Hài hước là cách giễu cợt nhẹ nhàng những yếu tố khác thường, phóng khoáng, phá vỡ khuôn khổ đã biết. Hay mỉa mai là cách tạo ra những yếu tố phi lý hoặc phi logic, đảo lộn trật tự thông thường, gây ra tiếng cười chỉ trích và thanh tẩy những thói xấu như phù phiếm, kiêu căng, đạo đức giả,… Phê bình là cấp độ thứ hai của tiếng cười trào phúng, thường có giọng điệu phủ nhận chủ thể một cách gay gắt, thể hiện sự hiểu biết của tác giả về cuộc sống, đạo đức.
4. Khái quát nội dung chính của văn bản “Một số giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng”:
4.1. Giới thiệu thơ trào phúng và một số sắc thái, giọng điệu cơ bản:
– Có thể nói, thơ trào phúng, châm biếm là một bộ phận đặc biệt của sáng tác văn học, đối tượng miêu tả, biểu đạt là những khiếm khuyết của con người và cuộc sống.
– Phương tiện độc đáo mà thơ trào phúng dùng để chống lại sự không hoàn hảo này là tiếng cười với nhiều cung bậc khác nhau.
– Một số thanh điệu cười cơ bản trong thơ trào phúng là: hài hước, mỉa mai, phê bình,…
4.2. Một số giọng điệu châm biếm cơ bản:
* Giọng điệu hài hước
– Đây là cách chế giễu nhẹ nhàng những yếu tố khác thường, ngang ngược, phá vỡ những khuôn khổ quen thuộc.
Dẫn chứng: Thơ ‘Tự Trào I’ – Phạm Thái.
* Giọng điệu châm biếm – mỉa mai
– Đó là cách tạo ra những yếu tố phi lý, phi logic, đảo lộn trật tự thông thường, gây ra tiếng cười chỉ trích, những thói hư tật xấu như kiêu căng, ngạo mạn, đạo đức giả, tính cách thất thường…
Dẫn chứng: Thơ ‘hỏi thăm quan tuần mất cướp’ của Nguyễn Khuyến.
– Trớ trêu – mỉa mai là cách gây cười bằng cách nêu ra những điều phi lý, không thể chấp nhận được một cách có vẻ nghiêm túc và hợp lý; tạo ra sự hoài nghi, chỉ trích và tẩy rửa những cái xấu, những điều lố bịch. Đó là cách “che đậy giễu cợt” bằng một chiếc mặt nạ nghiêm túc; Khen ngợi để chỉ trích, khẳng định để phủ nhận, tôn vinh để làm nhục. –
Dẫn chứng: Thơ ‘nha lệ thương dân’ – Kép Trà.
* Đả kích
– Còn có một mức độ cười châm biếm khác, thường là giọng điệu phủ nhận chủ thể một cách gay gắt, thể hiện sự hiểu biết của tác giả về cuộc sống, đạo đức. Họ có thể dùng những hình thức ngôn ngữ “khiển trách” một cách gay gắt và có phần thô tục, thô thiển để cảnh báo sự băng hoại đạo đức trong xã hội.
Dẫn chứng: Thơ ‘đất vị Hoàng’ – Trần Tế Xương.
4.3. Đưa ra lời khái quát về tiếng cười trong thơ trào phúng:
Tiếng cười trong văn học nói chung và thơ châm biếm, trào phúng nói riêng cũng phong phú và đầy màu sắc như chính cuộc sống. Tiếng cười này cần thiết để chống lại cái ác và dẫn dắt mỗi người đến những giá trị cao đẹp hơn.
– Trong thơ trào phúng có những màu sắc đậm nét của cuộc sống phản ánh những góc khuất trần trụi của cuộc sống.
– Trong thơ trào phúng, tiếng cười dùng để soi sáng tư tưởng, tình cảm của con người, chống lại cái ác, sự lạc hậu, sự suy đồi và lối sống kiêu căng, hoặc để nổi giận, vạch trần kẻ thù, tấn công những tư tưởng, hành động về bản chất phản nhân loại.
– Thơ trào phúng bộc lộ những mâu thuẫn của sự vật – mâu thuẫn giữa bên ngoài và bên trong – làm cho người đọc hiểu được sự mỉa mai của sự vật, và mỉa mai là phương thức chủ yếu của thơ châm biếm; Vì vậy, thơ trào phúng thường sử dụng lối cường điệu, so sánh, chơi chữ hài hước hoặc những lời lẽ lạnh lùng, cảm động.
5. Liên hệ tiếng cười trào phúng trong các tác phẩm thơ của văn học Việt Nam:
Thơ trào phúng là một thể loại văn học đặc biệt, sử dụng tiếng cười như một phương tiện để phản ánh, phê phán và chống lại những điều bất công, bất toàn, xấu xa trong xã hội và con người. Tiếng cười trong thơ trào phúng có nhiều giọng điệu khác nhau, tùy thuộc vào mục đích và thái độ của tác giả. Dưới đây là một số ví dụ về tiếng cười trong thơ trào phúng:
– Tiếng cười hài hước: là cách đùa cợt nhẹ nhàng, sử dụng những yếu tố kỳ quái, phóng túng, phá vỡ khuôn khổ quen thuộc để tạo ra tiếng cười vui vẻ, lạc quan, giúp vượt qua những khó khăn, nỗi đau trong cuộc sống. Ví dụ:
Có ai muốn hỏi tuổi tên gì?
Vừa chẵn ba mươi gọi chú Lì.
Dăm bảy câu thơ, gầy gối hạc,
Vài ba đứa trẻ, béo răng nghẽ.
Tranh vờn sơn thủy, màu nhem nhuốc,
Bầu dốc kiễn khôn, giọng bé be.
Miễn được ngày nào cho sướng kiếp,
Sống thì nuôi lấy, chết mang đi.
(Phạm Thái, Tự trào I)
– Tiếng cười mỉa mai – châm biếm: là cách tạo ra những yếu tố vô lý hoặc thiếu logic, đảo lộn trật tự thông thường, tạo nên tiếng cười phê phán, thanh lọc những thói xấu như tự mãn, kiêu căng, đạo đức giả, keo kiệt… Ví dụ:
Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông,
Nó lại mang ông bỏ giữa đồng.
Lấy của đánh người, quân tệ nhỉ!
Thân già da cóc, có đau không?
Bây giờ mới sẽ sầy da trá,
Ngày trước đi đâu mất mảy lông!
Thôi cũng đùng nên ki cóp nữa,
Kẻo mang tiếng dại với phương ngông!
(Nguyễn Khuyến, Hỏi thăm quan tuần mất cướp)
– Tiếng cười đả kích: là cách dùng những lời lẽ gay gắt, sắc bén, châm chọc để công kích, vạch mặt kẻ thù, đánh vào những tư tưởng, hành động mang bản chất thù địch với con người và dân tộc. Ví dụ:
Ngày xưa anh hèn chiếm nước ta
Đem trò ma thuật làm cho hoa
Ngày nay anh hèn chiếm nước ta
Đem trò ma thuật làm cho oai
(Hồ Xuân Hương)
– Trong bài “Thơ chế”, Nguyễn Khuyến đã dùng tiếng cười để phê phán những kẻ viết thơ rập khuôn, thiếu sáng tạo và tài năng. Tiếng cười ở đây mang ý nghĩa châm chọc, trào phúng và khinh thường:
Thơ chế ai chẳng biết viết
Chỉ làm cho đời cười ghê mấy phen
Thơ hay ai chẳng muốn đọc
Chỉ làm cho lòng thêm khổ mấy phen
‘Có đất nào như đất ấy không?
Phố phường tiếp giáp với bờ sông.
Nhà kia lỗi phép con khinh bố,
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.
Keo cú người đâu như cứt sắt,
Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng.
Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh,
Có đất nào như đất ấy không?’
Có thể nói ‘Đất vi Hoàng’ là một bài thơ châm biếm độc đáo của Tú Xương. Tôi muốn yêu quê hương, muốn tự hào về quê hương nhưng không thể được nữa. Nhà thơ sống trong bầu không khí bi thảm. Bốn câu của phần thực luận là một bộ gồm bốn bức tranh biếm họa về bốn loại người trong xã hội phương Tây thời kỳ đầu. Trong gia đình, con cái bất hiếu, vợ là “chanh chua” và ngu ngốc; Xã hội đâu đâu cũng chỉ có những kẻ kiêu ngạo “tham lam” và “dán mắt”. Sự suy đồi về đạo đức, bắt nguồn từ việc nhà nước mất đi quyền tự quyết, là hậu quả khủng khiếp của việc đề cao vật chất. Nhà thơ vừa buồn vừa khinh. Đúng là Tú Xương “đi bằng hai chân” trong hiện thực châm biếm, trữ tình, tạo nên chất giọng độc đáo hiếm có.
Bài thơ hoàn toàn bằng chữ Nôm, ngôn ngữ giản dị nhưng cảm động. Bốn câu hỏi xuất hiện trong bài thơ làm cho giọng điệu trở nên mạnh mẽ, bức xúc hơn. Thơ mượt mà, chân thực, Tú Xương lấy làm thơ với lối viết khéo léo nhưng tự nhiên, hồn nhiên, độc đáo nhưng giản dị. Hiếm có bài thơ nào hay như bài thơ “Đất Vị Hoàng” này trong thơ ca dân gian. Tú Xương mãi mãi là bậc thầy trào phúng của thơ ca dân tộc.