Trong đời sống xã hội, có những cái chết không phải do ý định giết người mà xuất phát từ sự cẩu thả hay quá tự tin của một cá nhân, gây ra mất mát lớn cho gia đình nạn nhân và bất ổn cho xã hội. Nhằm xử lý công bằng những trường hợp này, Bộ luật Hình sự 2015 đã có quy định cụ thể về Tội vô ý làm chết người.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát chung về Tội vô ý làm chết người:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội vô ý làm chết người:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội vô ý làm chết người:
- 4 4. Tình tiết định khung tăng nặng của Tội vô ý làm chết người:
- 5 5. Phân biệt Tội vô ý làm chết người và các tội danh khác có liên quan:
- 6 6. Bản án điển hình về Tội vô ý làm chết người:
1. Khái quát chung về Tội vô ý làm chết người:
1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của Tội vô ý làm chết người:
Vô ý được hiểu là “không để ý đến”. Do đó, phạm tội do lỗi vô ý được hiểu là người phạm tội do bất cẩn, không để ý các quy tắc, quy định của đời sống xã hội nên gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản… của người khác.
Lỗi vô ý là trường hợp người phạm tội khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và thấy trước hành của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng tin rằng hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên vẫn thực hiện hành vi và đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội hoặc người phạm tội do thiếu sự chú ý cần thiết nên không nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của các hành vi đã gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội.
Trên phương diện pháp lý, khoa học Luật Hình sự phân lỗi vô ý thành hai hình thức là: Vô ý phạm tội vì cẩu thả và vô ý phạm tội vì quá tự tin. Tội phạm do lỗi vô ý phần lớn gây nguy hiểm khi gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội ở mức độ nhất định. Việc cá nhân gây thiệt hại cho xã hội là một căn cứ xác định hành vi đã thực hiện có mức độ nguy hiểm đáng kể cho xã hội.
Lỗi vô ý phạm tội vì cẩu thả bao gồm những trường hợp người phạm tội không nhận thức được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Đây là trường hợp thiếu sự chú ý cần thiết khi thực hiện hành vi nên không nhận thức được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội mặc dù có thể thấy trước và thấy trước hậu quả đó thuộc hình thức lỗi vô ý phạm tội. Còn trong tình huống nhận thức được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, tuy nhận thức được khả năng hậu quả xảy ra nhưng đã tự loại trừ khả năng đó và đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội thuộc hình thức lỗi vô ý phạm tội vì quá tự tin.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm:
Tội vô ý làm chết người là hành vi của một người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật hình sự tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây hậu quả chết người, nhưng cho rằng hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên vẫn thực hiện hành vi và đã gây ra hậu quả chết người; hoặc khi thực hiện hành vi nguy hiểm không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra chết người mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Tội danh này thể hiện quan điểm lập pháp: Pháp luật hình sự không chỉ xử lý hành vi cố ý mà còn trừng trị những hành vi thiếu trách nhiệm, coi thường sự an toàn tính mạng của người khác.
1.2. Ý nghĩa xã hội và chính sách hình sự của việc quy định Tội vô ý làm chết người:
Việc quy định tội vô ý làm chết người mang nhiều ý nghĩa:
- Bảo vệ quyền sống, quyền cơ bản nhất của con người được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ;
- Răn đe, phòng ngừa chung, buộc mỗi cá nhân trong xã hội phải cẩn trọng, tránh sự bất cẩn hay cẩu thả có thể gây hậu quả nghiêm trọng;
- Phân hóa trách nhiệm hình sự, không đánh đồng hậu quả chết người do vô ý với hành vi cố ý giết người; đảm bảo tính công bằng và nhân đạo trong xử lý.
1.3. Căn cứ pháp luật điều chỉnh Tội vô ý làm chết người:
Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội vô ý làm chết người như sau:
“Điều 128. Tội vô ý làm chết người
1. Người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.”
Như vậy, Bộ luật hình sự 2015 đã ban hành khung hình phạt linh hoạt, vừa bảo đảm tính răn đe vừa thể hiện sự khoan hồng khi hậu quả chết người xuất phát từ lỗi vô ý, không phải lỗi cố ý trực tiếp.
2. Cấu thành tội phạm của Tội vô ý làm chết người:
2.1. Khách thể của Tội vô ý làm chết người:
Tội vô ý làm chết người xâm phạm đến quyền sống của con người. Hành vi của tội phạm tác động đến con người đang sống, trong điều kiện sinh hoạt bình thường gây nên sự biến đối trạng thái của con người từ một cơ thể sống chuyển sang chấm dứt và khả năng sống. Khách thể trực tiếp của tội này là quyền sống hay còn được gọi là quyền được tôn trọng bảo vệ về tính mạng của con người.
Tội vô ý làm chết người và một số tội khác như tội giết người, tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát… có chung khách thể đều là: Xâm phạm quyền sống của con người.
2.2. Mặt khách quan của Tội vô ý làm chết người:
Hành vi khách quan của tội vô ý làm chết người là hành vi vi phạm các quy tắc bảo đảm an toàn tính mạng con người qua đó gây hậu quả chết người. Các quy tắc bảo đảm an toàn tính mạng con người thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, có thể đã được quy định trong luật, có thể chỉ là những quy tắc xử sự xã hội thông thường mà mọi người đều biết và thừa nhận.
Hành vi phạm tội thuộc mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành động do cẩu thả hoặc quá tự tin mà gây ra cái chết cho nạn nhân. Hành vi khách quan tương tự như hành vi thực hiện tội phạm giết người.
Hậu quả “chết người” là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Hành vi vi phạm các quy tắc an toàn thuộc các lĩnh vực khác nhau gây ra hậu quả chết người. Khi hậu quả chết người xảy ra thì hành vi vi phạm mới cấu thành tội vô ý làm chết người. Mối quan hệ nhận quả giữa hành vi và hậu quả chết người là dấu hiệu phải được làm rõ trong mặt khách quan của tội phạm. Quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả đã xảy ra là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Người có hành vi vi phạm chỉ phải chịu trách nhiệm dân sự về hậu quả chết người xảy ra, nếu hành vi vi phạm của họ đã gây ra hậu quả này hay nói cách khác là giữa hành vi vi phạm của họ và hậu quả chết người có quan hệ nhân quả với nhau.
Tội vô ý làm chết người có cấu thành tội phạm vật chất, có nghĩa là phải có hậu quả là chết người xảy ra thì mới có cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vô ý làm chết người. Hậu quả chết người chưa xảy ra thì không đủ cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi vô ý. Ở đây phải có mối liên hệ ràng buộc giữa hành vi vô ý và hậu quả chết người một cách biện chứng. Hành vi là nguyên nhân gây ra hậu quả và hành vi phải có trước hậu quả làm chết người xảy ra trên thực tế.
Về phía nạn nhân, nạn nhân của Tội vô ý làm chết người có thể là bất cứ người nào. Nạn nhân có thể là người quen thuộc với người thực hiện tội phạm, thậm chí là người cùng tham gia vào hành vi với người thực hiện tội phạm nhưng vì sự vô ý hoặc quá tự tin của người phạm tội mà bản thân họ trở thành nạn nhân. Hoặc nạn nhân cũng có thể là một người hoàn toàn xa lạ nhưng bị tác động bởi hành vi vô ý dẫn đến việc thiệt mạng.
2.3. Chủ thể của Tội vô ý làm chết người:
Chủ thể của tội vô ý làm chết người chỉ cần là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi Bộ luật Hình sự quy định. Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015, người phạm tội này là người đạt độ tuổi từ đủ 16 tuổi trở lên.
Vì thế, chủ thể của Tội vô ý làm chết người là người đã thực hiện hành vi vi phạm các quy tắc an toàn thuộc lĩnh vực khác nhau gây hậu quả chết người (trừ hành vi vi phạm thuộc một số lĩnh vực đã được quy định thành các tội danh riêng).
2.4. Mặt chủ quan của Tội vô ý làm chết người:
Mặt chủ quan là yếu tố đặc biệt phân biệt giữa Tội vô ý làm chết người với tội giết người.
Người phạm Tội vô ý làm chết người có lỗi vô ý. Cụ thể:
- Vô ý do cẩu thả: Là trường hợp do cẩu thả mà người phạm tội không thấy trước khả năng gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước hoặc có thể thấy trước. Tiêu chuẩn để xác định một người phải thấy trước và có thể thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội là căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra sự việc, một người bình thường cũng có thể thấy trước; ngoài ra còn phải căn cứ vào độ tuổi, trình độ nhận thức, trình độ văn hóa, tay nghề… Như vậy, vô ý do cẩu thả làm chết người là trường hợp người phạm tội vì cẩu thả nên đã không nhìn thấy trước hậu quả chết người mặc dù pháp luật yêu cầu họ phải thấy trước hậu quả đó;
- Vô ý vì quá tự tin: Là trường hợp người phạm tội thấy trước được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, nhưng hậu quả đó vẫn xảy ra. Như vậy, có thể hiểu vô ý làm chết người do quá tự tin là trường hợp người phạm tội hoàn toàn thấy trước được hậu quả chết người nhưng do chủ quan, quá tự tin cho rằng hậu quả không xảy ra nên vẫn thực hiện hành vi đó, kết quả hậu quả chết người vẫn xảy ra.
3. Khung hình phạt của Tội vô ý làm chết người:
Người phạm Tội vô ý làm chết người sẽ phải chịu hình phạt theo các khung hình phạt quy định tại Điều 128 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
Như vậy, người phạm Tội vô ý làm chết người sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự và mức phạt sẽ được xác định căn cứ vào mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm trên thực tế.
4. Tình tiết định khung tăng nặng của Tội vô ý làm chết người:
Tình tiết định khung tăng nặng của Tội vô ý làm chết người được quy định tại khoản 2 Điều 128 Bộ luật Hình sự năm 2015 là: Phạm tội làm chết 02 người trở lên, khi đó sẽ bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
Hậu quả làm chết từ 02 người trở lên dẫn rới mức độ nguy hiểm cho xã hội tăng cao, khi đó tính chất vụ án được xác định là rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Dù người phạm tội vẫn mang lỗi vô ý nhưng số lượng nạn nhân tăng làm hậu quả xã hội nghiêm trọng hơn, cần xử lý nghiêm khắc hơn để đảm bảo công bằng và răn đe.
Dấu hiệu pháp lý cụ thể như sau:
- Số lượng nạn nhân: Từ 02 người trở lên phải chết trực tiếp do hành vi vô ý của người phạm tội;
- Mối quan hệ nhân quả: Phải chứng minh hậu quả chết người có nguyên nhân trực tiếp từ hành vi vô ý của người phạm tội. Nếu hành vi chỉ gây chết một người còn người khác chết do yếu tố khách quan khác (tai nạn chồng lấn, thiên tai…) thì không áp dụng khung tăng nặng này;
- Không phụ thuộc vào động cơ và mục đích: Vì động cơ không phải là yếu tố bắt buộc trong cấu thành của tội này, vì thế chỉ cần xác định được hậu quả làm chết từ 02 người trở lên là đủ yếu tố để tăng nặng khung hình phạt.
5. Phân biệt Tội vô ý làm chết người và các tội danh khác có liên quan:
5.1. Phân biệt Tội vô ý làm chết người và Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính:
Tiêu chí | Tội vô ý làm chết người (Điều 128 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 129 Bộ luật Hình sự 2015) |
Chủ thể | Bất kỳ ai từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự. | Người có trách nhiệm tuân thủ các quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (như bác sĩ, kỹ sư, tài xế, công chức, v.v.) từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự. |
Khách thể | Xâm phạm đến quyền sống của con người. | Xâm phạm đến quyền sống của con người và vi phạm quy tắc an toàn nghề nghiệp hoặc hành chính. |
Mặt khách quan | Hành vi vô ý (do cẩu thả, thiếu thận trọng) gây ra cái chết cho người khác. | Hành vi vô ý vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính, dẫn đến cái chết cho người khác. |
Mặt chủ quan | Lỗi vô ý. Người phạm tội không mong muốn và không nhận thức được hành vi của mình có thể gây ra cái chết. | Lỗi vô ý. Người phạm tội không mong muốn gây ra cái chết, nhưng do không tuân thủ quy tắc nghề nghiệp hoặc hành chính mà mình phải tuân thủ. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt từ từ 01 đến 05 năm Khung 2: Phạt tù từ 03 đến 10 năm | Khung 1: phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Hình phạt bổ sung: bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
5.2. Phân biệt Tội vô ý làm chết người với Tội giết người và giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh:
Tiêu chí | Tội vô ý làm chết người (Điều 128 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội giết người (Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125 Bộ luật Hình sự 2015) |
Khách thể | Quyền sống của con người | Quyền sống của con người | Quyền sống của con người |
Hành vi | Hành vi vô ý, thiếu cẩn trọng, gây chết người | Hành vi cố ý tước đoạt tính mạng người khác | Hành vi cố ý tước đoạt tính mạng trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật của nạn nhân |
Hậu quả | Bắt buộc: Chết người (01 hoặc nhiều người) | Bắt buộc: Chết người | Bắt buộc: Chết người |
Lỗi | Vô ý (vì quá tự tin hoặc cẩu thả) | Cố ý (trực tiếp hoặc gián tiếp) | Cố ý, nhưng trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh |
Đặc điểm pháp lý đặc thù | Không mong muốn hậu quả, nhưng do cẩu thả hoặc quá tin tưởng dẫn đến chết người | Người phạm tội có ý chí tước đoạt tính mạng, thể hiện sự nguy hiểm cao nhất | Người phạm tội có ý định giết, nhưng được giảm nhẹ do bị kích động mạnh bởi hành vi trái pháp luật nghiêm trọng |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. | Khung 1: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Khung 2: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khung 3: Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm. | Khung 1: Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. |
Mức độ nguy hiểm cho xã hội | Thấp hơn so với các tội danh còn lại | Nguy hiểm nhất, xâm phạm trực tiếp quyền sống với lỗi cố ý | Nguy hiểm nhưng giảm nhẹ do yếu tố tâm lý đặc biệt |
6. Bản án điển hình về Tội vô ý làm chết người:
Tên bản án: Bản án số 30/2020/HS-ST ngày 08/06/2020 của Tòa án nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.
- Tóm tắt nội dung vụ án:
Ngày 10/12/2019 đến ngày 14/12/2019 P và D đi săn thú rừng, đến 18 giờ 00 phút ngày 14/12/2019 mỗi người đi một hướng để săn thú rừng, khoảng 20 giờ 00 phút thì P có nghe tiếng động và có nhìn thấy hai ánh mắt sáng lên nghĩ đó là con Cầy đen.
P giương súng bán về phía con cầy, sau khi bắn xong P lại kiểm tra thì P đã biết mình bán nhầm vào Chang A D làm D tử vong tại chỗ.
Trên cơ sở đó, có đủ căn cứ khẳng định bị cáo Hảng A P đã phạm vào tội: “Vô ý làm chết người” theo quy định tại khoản 1 điều 128 Bộ luật hình sự.
Như vậy cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ tỉnh Lai Châu truy tố bị cáo về tội “Vô ý làm chết người” theo quy định tại khoản 1 điều 128 Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng quy định của pháp luật.
- Quyết định của Tóa án:
Tuyên bố bị cáo Hảng A P phạm tội “Vô ý làm chết người”.
Xử phạt bị cáo Hảng A P 18 (Mười tám) tháng cải tạo không giam giữ.
Giao bị cáo Hảng A P cho Ủy ban nhân dân xã Sin Suối Hồ, huyện Phong Thổ tỉnh Lai Châu có trách nhiệm giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời gian giám sát giáo dục tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã Sin Suối Hồ nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Miễn khấu trừ thu nhập của bị cáo trong thời gian cải tạo.
THAM KHẢO THÊM: