Tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi là gì? Tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi tiếng Anh là gì? Quy định pháp luật về Tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi? Về hình phạt của tội phạm?
Theo quy định của pháp luật hiện hành nghiêm cấm sử dụng người lao động dưới 16 tuổi lao động công việc nặng nhọc, nguy hiểm và độc hại.Hành vi vi phạm quy định trên phải bị xử phạt. Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã quy định về tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi. Bài viết dưới đây Luật Dương Gia sẽ giới thiệu về tội vi phạm quy định về sử dụng người dưới 16 tuổi.
1. Tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi là gì?
Hành vi vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới là hành vi sử dụng người lao động dưới 16 tuổi làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với chất độc hại theo danh mục mà Nhà nước quy định.
Như vậy, tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi là hành vi hành vi sử dụng người lao động dưới 16 tuổi làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với chất độc hại theo danh mục mà Nhà nước quy định được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định.
2. Tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi tiếng Anh là gì?
Tội vi pham quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi tiếng Anh là “Violations against regulations of law on employment of workers under 16”.
3. Quy định pháp luật về Tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi
Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về Tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi như sau:
“Điều 296. Tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi
1. Người nào sử dụng người lao động dưới 16 tuổi làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với chất độc hại theo danh mục mà Nhà nước quy định thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Làm chết người;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Làm chết 02 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 122% trở lên.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Khách thể của tội phạm
Tội phạm này xâm hại đến quy định của nhà nước về việc sử dụng người lao động là người dưới 16 tuổi đồng thòi xâm phạm đến tính mạng sức khỏe của người lao động là người dưới 16 tuổi.
Đối tượng tác động của tội phạm này đó là người lao động dưới 16 tuổi..
Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm này có các dấu hiệu sau:
– Về hành vi đó chính là vi phạm quy định về lao động đối với người lao động dưới 16 tuổi. Hiện nay, theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 quy định thì:
+ Người từ đủ 13 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi chỉ được làm công việc nhẹ theo danh mục do Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành.
+ “Cấm sử dụng người lao động từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi làm các công việc sau đây:
a) Mang, vác, nâng các vật nặng vượt quá thể trạng của người chưa thành niên;
b) Sản xuất, kinh doanh cồn, rượu, bia, thuốc lá, chất tác động đến tinh thần hoặc chất gây nghiện khác;
c) Sản xuất, sử dụng hoặc vận chuyển hóa chất, khí gas, chất nổ;
d) Bảo trì, bảo dưỡng thiết bị, máy móc;
đ) Phá dỡ các công trình xây dựng;
e) Nấu, thổi, đúc, cán, dập, hàn kim loại;
g) Lặn biển, đánh bắt thủy, hải sản xa bờ;
h) Công việc khác gây tổn hại đến sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của người chưa thành niên.
2. Cấm sử dụng người lao động từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi làm việc ở các nơi sau đây:
a) Dưới nước, dưới lòng đất, trong hang động, trong đường hầm;
b) Công trường xây dựng;
c) Cơ sở giết mổ gia súc;
d) Sòng bạc, quán bar, vũ trường, phòng hát karaoke, khách sạn, nhà nghỉ, cơ sở tắm hơi, cơ sở xoa bóp; điểm kinh doanh xổ số, dịch vụ trò chơi điện tử;
đ) Nơi làm việc khác gây tổn hại đến sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của người chưa thành niên.”
+ Người chưa đủ 13 tuổi chỉ được làm các công việc nghệ thuật, thể dục, thể thao nhưng không làm tổn hại đến sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của người chưa đủ 13 tuổi và phải có sự đồng ý của cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Nhu vậy, việc sử dụng người lao động là người dưới 16 tuổi phải tuân theo những quy định trên. Thông thường, các hành vi vi phạm của tội phạm này đó là sử dụng người lao động dưới 16 tuổi làm những công việc nặng nhọc, những công việc có độ nguy hiểm cao như xây nhà ở độ ca
Về dấu hiệu hậu quả, thì hậu quả là dấu hiệu bắt buộc trong trường hợp theo quy định tại điểm b, điểm c Khoản 1 Điều 296 đó là gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%.
Hậu quả không là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm trong trường hợp người phạm tội đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm
Chủ thể của tội phạm
Chủ thể phạm tội là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì bộ luật hình sự năm 2015 có quy định như sau:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”
Như vậy, chủ thể của tội phạm này là người từ đủ 16 tuổi trở lên và không bị mất năng lực hành vi dân sự.
Ngoài ra, đối với trường hợp tại Điểm a Khoản 1 thì chủ thể của tội phạm còn là người đã bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
Mặt chủ quan:
Người phạm tội thực hiện tội phạm này vối lỗi cố ý. Tại Điều 10 của Bộ luật Hình sự quy định về lỗi vô ý như sau:
“Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;
2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.”
Như vậy, đối với tội phạm này, thì người phạm tội biết người mà mình sử dụng lao động chưa đủ 16 tuổi và công việc giao cho trẻ em làm là công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc độc hại thuộc danh mục Nhà nước quy định.
4. Về hình phạt của tội phạm
Mức hình phạt của tội phạm này được chia thành ba khung, cụ thể như sau:
– Khung một (khoản 1).
Có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%.
– Khung hai (khoản 2)
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 61% trở lên.
– Khung ba (khoản 3)
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
a) Làm chết 02 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 122% trở lên.
– Hình phạt bổ sung (khoản 4)
Ngoài việc bị áp dụng một trong các hình phạt chính nêu trên, tùy từng trường hợp ngưòì phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.