Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai là gì? Cấu thành tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai theo Điều 228 Bộ luật hình sự năm 2015? Cấu thành tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai theo Điều 229 Bộ luật hình sự năm 2015?
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng. Điều 4
Mục lục bài viết
1. Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai và quản lý đất đai là gì?
Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai và quản lý đất đai được quy định lần lượt tại các điều 228, 229
Theo đó:
Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai được hiểu là tội phạm có dấu hiệu hành vi lấn chiếm đất hoặc là chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về việc quản lý và sử dụng đất.
Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai được hiểu là tội phạm có dâu hiệu hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý Nhà nước về đất đai đã lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật.
2. Cấu thành tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai:
Căn cứ pháp lý: Điều 228 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi năm 2017
Về khách thể: Người phạm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai và quản lý đất đai xâm phạm đến khách thể là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của nhà nước trong lĩnh vực về sử dụng đất đai.
Đối tượng tác động của tội phạm là đất đai
Mặt khách quan:
Dấu hiệu về hành vi:
– Hành vi lấn chiếm đất: Lấn chiếm là từ ghép chỉ hành động “lấn” và “chiếm”. “ “Lấn”: Được hiểu là lấy thêm đất liền kề với đất của mình nhằm mở rộng diện tích, “Chiếm”: Được hiểu là dùng thủ đoạn chiếm lấy đất của người khác làm đất của mình mà trước đó mình không hề có.
– Hành vi chuyển quyền sử dụng đất trái với các quy định của nhà nước:
Là bán đất cho người khác không đúng với quy định của nhà nước như: bán đất nông nghiệp cho người khác để làm nhà, bán đất do Hợp tác xã giao cho sản xuất cho người khác để lấy tiền tiêu xài…
– Hành vi sử dụng đất trái với quy định của nhà nước:
Là trường hợp người được giao đất đã sử dụng đất không đúng với mục đích được giao như: để đất hoang, đất giao để trồng rừng nhưng lại dùng đất đó làm nhà hàng kinh doanh, đất giao để sản xuất nông nghiệp lại dùng đất đó nuôi tôm…
Hậu quả:
Đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai, hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.
Trong trường hợp có hành vi vi phạm các quy định về sử dụng đất nhưng hậu quả chưa nghiêm trọng, thì người có hành vi vi phạm các quy định của nhà nước về sử dụng đất đai phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này chưa xóa án tích mà còn vi phạm thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Hậu quả nghiêm trọng do hành vi vi phạm các quy định của nhà nước về sử dụng đất đai gây ra là những thiệt hại nghiêm trọng cho tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản cho con người, cho cơ quan, tổ chức và những thiệt hại nghiêm trọng khác cho xã hội.
Dấu hiệu khách quan khác:
Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội vi phạm các quy định của Nhà nước về sử dụng đất đai, Pháp luật hình sự Việt Nam còn quy định các dấu hiệu khách quan khác như: Các quy định của nhà nước về sử dụng đất đai, các quy định này thường là của chính phủ hoặc của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Do đó, khi xác định hành vi vi phạm các quy định của nhà nước về sử dụng đất đai, các cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu kỹ các văn bản của nhà nước quy định về sử dụng đất đai.
Mặt chủ quan của tội phạm:
Người phạm tội vi phạm quy định về sử dụng đất đai thực hiện hành vi của mình là do cố ý
Lỗi cố ý trực tiếp:
Người phạm tội nhận thức rõ hành vi vi phạm các quy định về sủ dụng đất đai của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra
Lỗi cố ý gián tiếp:
Người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn để mặc cho hậu quả xảy ra
Động cơ của tội phạm được xác định vụ lợi.
Chủ thể của tội phạm: Là những người sử dụng đất đai
Người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án về tội này mà vẫn thực hiện một trong các hành vi sau:
Hành vi lấn chiếm đất
Hành vi chuyển quyền sử dụng đất
Hoặc sử dụng đất trái với các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai.
Quy định về hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai:
+ Khung một
Có mức phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Áp dụng đối với trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản nêu ở mặt khách quan.
+ Khung hai: Phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm
Áp dụng đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Tái phạm nguy hiểm.
– Hình phạt bổ sung
Ngoài hình phạt chính, tùy từng trường hợp cụ thể người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng (và chỉ được áp dụng khi hình phạt chính không phải là phạt tiền)
3. Cấu thành tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai:
Khách thể của tội phạm:
Tội phạm của tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai xâm phạm đến khách thể là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai về việc giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất.
Đối tượng tác động của tội phạm này là đất đai
Mặt khách quan của tội phạm:
Dấu hiệu hành vi khách quan:
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn: Là trường hợp người phạm tội có chức vụ, quyền hạn và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đai trái pháp luật…
Lạm dụng chức vụ, quyền hạn là người có chức vụ, quyền hạn nhưng đã vượt quá quyền hạn được giao để giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đai trái pháp luật.
Người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn có thể thực hiện một trong các hành vi:
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn giao đất trái pháp luật
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn thu hồi đất trái pháp luật
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn cho thuê đất trái pháp luật; cho phép chuyển quyền sử dụng đất trái pháp luật
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật.
Về hậu quả:
Khác với tội vi phạm các quy định của nhà nước về sử dụng đất đai, tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai mà gây hậu quả nghiêm trọng, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 2 của điều 229 BLHS.
Các dấu hiệu khách quan khác:
Các dấu hiệu khách quan khác như: Các quy định của nhà nước về quản lý đất đai như: Luật đất đai, các Nghị định của chính phủ hoặc các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân hoặc của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Do đó, khi xác định hành vi vi phạm các quy định của nhà nước về quản lý đất đai, các cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu kỹ các văn bản của nhà nước quy định về quản lý đất đai.
Mặt chủ quan của tội phạm:
Người phạm tội vi phạm quy định về quản lý đất đai thực hiện hành vi của mình là do cố ý
Cố ý trực tiếp: Nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm quy định của nhà nước về quản lý đất đai, mong muốn cho hậu quả xảy ra
Cố ý gián tiếp: Nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm quy định của nhà nước về quản lý đất đai , tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.
Động cơ của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng chủ yếu vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác.
Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có chức vụ, quyền hạn liên quan đến việc giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất mới có thể là chủ thể của tội phạm này.
Nếu hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai chưa bị xử lý kỷ luật về hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai thì chưa phải chịu trách nhiệm hình sự.
Điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự:
Người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự khi có hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Đất trồng lúa có diện tích từ 5.000 m2 đến dưới 30.000 m2; đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000 m2 đến dưới 50.000 m2; đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 10.000 m2 đến dưới 40.000 m2
+ Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp.
+ Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.
4. Quy định về hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng và quản lý đất đai:
Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm
Áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung tăng nặng sau:
+ Có tổ chức;
+ Đất trồng lúa có diện tích từ 30.000 mét vuông (m2) đến dưới 70.000 mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 50.000 mét vuông (m2) đến dưới 100.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 40.000 mét vuông (m2) đến dưới 80.000 mét vuông (m2);
+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 12 năm
Áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung tăng nặng sau:
+ Đất trồng lúa có diện tích từ 70.000 mét vuông (m2) trở lên; đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 100.000 mét vuông (m2) trở lên; đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 80.000 mét vuông (m2) trở lên;
+ Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền 7.000.000.000 đồng trở lên đối với đất nông nghiệp hoặc 15.000.000.000 đồng trở lên đối với đất phi nông nghiệp.
Hình phạt bổ sung:
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.