Tệ nạn ma túy là hiểm họa nghiêm trọng đe dọa sức khỏe cộng đồng và trật tự xã hội. Trong đó, hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy không chỉ khuyến khích việc lạm dụng ma túy mà còn tạo môi trường phát sinh tội phạm. Vì vậy hiện nay Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định tội danh này tại Điều 255 nhằm xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát chung về Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy:
- 4 4. Các tình tiết định khung tăng nặng của Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy:
- 4.1 4.1. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015:
- 4.2 4.2. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015:
- 4.3 4.3. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 4 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015:
- 5 5. Phân biệt với Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy:
- 6 6. Bản án điển hình của Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy:
1. Khái quát chung về Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy:
1.1. Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là gì?
Trong những năm gần đây, tình trạng tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy ngày càng diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng, đặc biệt tại các quán bar, karaoke, vũ trường, khách sạn hoặc các tụ điểm giải trí trá hình. Không ít đối tượng đã đứng ra thuê địa điểm, cung cấp dụng cụ, phân chia ma túy cho nhiều người cùng sử dụng, biến nơi đó thành “ổ” tệ nạn.
Hậu quả là làm lan rộng tình trạng nghiện ma túy, gây mất trật tự xã hội, tiềm ẩn nguy cơ phát sinh nhiều loại tội phạm khác như cướp giật, trộm cắp, giết người, hiếp dâm… Nhiều vụ án bị triệt phá cho thấy số lượng người tham gia đông, thủ đoạn tinh vi, có tổ chức, làm công tác đấu tranh, xử lý gặp nhiều khó khăn.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy như sau:
“Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được hiểu là hành vi của người chủ động đứng ra bố trí, điều hành, chỉ đạo, hướng dẫn hoặc cung cấp địa điểm, phương tiện, điều kiện để người khác sử dụng trái phép chất ma túy. Hành vi này mang tính chủ mưu, cầm đầu, không trực tiếp sử dụng chất ma túy nhưng có vai trò quyết định trong việc tạo ra môi trường để ma túy được sử dụng.”
1.2. Ý nghĩa của Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong pháp luật hình sự:
- Thứ nhất, ý nghĩa pháp lý: Quy định về Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong Bộ luật Hình sự năm 2015 tạo hành lang pháp lý rõ ràng để xử lý những người không trực tiếp sử dụng nhưng giữ vai trò tổ chức, điều hành và cung cấp điều kiện thuận lợi cho hành vi phạm tội. Điều này khắc phục tình trạng bỏ lọt tội phạm, đồng thời đảm bảo sự công bằng trong xử lý khi người cầm đầu phải chịu trách nhiệm nghiêm khắc hơn những người tham gia.
- Thứ hai, ý nghĩa xã hội: Việc xử lý nghiêm minh hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy giúp ngăn chặn sự hình thành và phát triển các tụ điểm ma túy trá hình và hạn chế tình trạng lôi kéo nhiều người cùng sử dụng. Qua đó góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng, nhất là giới trẻ – nhóm đối tượng dễ bị dụ dỗ hoặc lôi kéo.
- Thứ ba, ý nghĩa phòng ngừa: Tội danh này có tác dụng răn đe, cảnh tỉnh mạnh mẽ đối với những kẻ có ý đồ lợi dụng ma túy để trục lợi hoặc để điều hành các hoạt động phạm pháp khác. Đồng thời, việc xử lý kịp thời còn góp phần phòng ngừa sự lan rộng của tệ nạn ma túy và giảm nguy cơ kéo theo các tội phạm nghiêm trọng khác như: cướp tài sản, giết người, hiếp dâm…
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy:
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy hiện nay đang được quy định tại Điều 255 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi;
d) Đối với phụ nữ mà biết là có thai;
đ) Đối với người đang cai nghiện;
e) Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
g) Gây bệnh nguy hiểm cho người khác;
h) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:
a) Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên hoặc gây chết người;
b) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây bệnh nguy hiểm cho 02 người trở lên;
d) Đối với người dưới 13 tuổi.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
b) Làm chết 02 người trở lên.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy:
2.1. Khách thể:
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy xâm phạm trực tiếp đến: Chế độ quản lý của Nhà nước về chất ma túy và an ninh trật tự xã hội.
Đây là khách thể đặc biệt quan trọng vì nó không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng mà còn làm gia tăng các loại tội phạm khác, đe dọa trật tự và an toàn xã hội.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi khách quan của tội phạm thể hiện ở việc tổ chức cho người khác sử dụng trái phép chất ma túy, cụ thể là thực hiện một hoặc nhiều hành vi như:
- Bố trí, sắp xếp, điều hành con người, phương tiện;
- Chuẩn bị, cung cấp địa điểm, dụng cụ, phương tiện hoặc trực tiếp cung cấp ma túy để người khác sử dụng.
Điểm đặc thù của tội danh này là hành vi tổ chức có thể mang tính chất thường xuyên, nhất thời hoặc lặp lại nhiều lần; diễn ra ở những địa điểm cố định hoặc địa điểm di động.
Trong Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy có thể có đồng phạm, tuy nhiên đồng phạm được hiểu là những người cùng tham gia theo sự phân công hoặc điều hành, không bắt buộc phải có sự câu kết chặt chẽ và hệ thống như trong trường hợp “phạm tội có tổ chức”.
Đáng lưu ý, nếu một người nghiện ma túy có chất ma túy và chia cho người nghiện khác cùng sử dụng thì không bị coi là hành vi Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 (từ đủ 16 tuổi trở lên theo Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015) – chủ thể thường.
Theo đó, người từ đủ 16 tuổi trở lên và có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi đều có thể trở thành chủ thể của tội danh này.
2.4. Mặt chủ quan:
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được thực hiện với lỗi cố ý (cố ý trực tiếp). Họ nhận thức rõ ràng rằng pháp luật nghiêm cấm tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, thấy trước hậu quả nguy hiểm có thể xảy ra đối với xã hội nhưng vẫn mong muốn thực hiện.
Lỗi trong trường hợp này luôn là lỗi cố ý trực tiếp bởi người phạm tội chủ động tổ chức, sắp xếp, điều hành nhằm tạo điều kiện cho việc sử dụng trái phép chất ma túy diễn ra. Không có trường hợp nào được xem là lỗi cố ý gián tiếp.
Kết luận: Người bị coi là phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy phải thỏa mãn đầy đủ cả bốn yếu tố nêu trên. Việc xác định rõ từng yếu tố cấu thành tội phạm không chỉ giúp cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng pháp luật chính xác, mà còn bảo đảm việc xử lý được khách quan, công bằng, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
3. Khung hình phạt của Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy:
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Điều 255 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 15 năm đến 20 năm.
- Khung 4: Phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
4. Các tình tiết định khung tăng nặng của Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 255 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
4.1. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015:
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Phạm tội 02 lần trở lên:
Người phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy 02 lần trở lên mà mỗi lần phạm tội đều có đầy đủ yếu tố cấu thành tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, đồng thời trong số các lần tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trường hợp, người phạm tội có 02 lần tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý trong đó có một lần chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì cũng không thuộc trường hợp này. Trong trường hợp, người phạm tội có từ ba, bốn, năm… lần tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý trong đó có một lần bị kết án hoặc được miễn trách nhiệm hình sự, được miễn hình phạt hoặc đã bị xử phạt hành chính hoặc xử lý kỷ luật đối với tội phạm này nhưng những lần còn lại vẫn đáp ứng điều kiện nêu trên thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định này.
- Đối với 02 người trở lên:
Quy định này áp dụng đối với người phạm tội một lần tổ chức cho hai người trở lên sử dụng trái phép chất ma tuý. Trường hợp người phạm tội tổ chức 02 lần trở lên nhưng mỗi lần tổ chức cho một người sử dụng trái phép chất ma tuý thì không áp dụng quy định tại điểm này mà áp dụng quy định tại điểm a khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015 (phạm tội 02 lần trở lên). Nếu người phạm tội nhiều lần mà mỗi lần tổ chức cho 02 người trở lên sử dụng trái phép chất ma tuý, thì vừa thuộc trường hợp “phạm tội nhiều lần” vừa thuộc trường hợp “phạm tội đối với nhiều người”.
- Đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi:
Pháp luật Việt Nam nói chung và luật hình sự nói riêng thì người chưa thành niên luôn là đối tượng được bảo vệ đặc biệt do đây là đối tượng dễ bị tổn thương, kích động, lôi kéo, khả năng nhận thức chưa cao, bởi vậy phạm tội đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi được quy định là tình tiết tăng nặng định khung đối với tội phạm này. So sánh với quy định tại điểm c khoản 2 Điều 197 Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung, làm rõ khái niệm và giới hạn độ tuổi của người chưa thành niên, góp phần thống nhất việc nghiên cứu, áp dụng đối với điều khoản này.
- Đối với phụ nữ mà biết là có thai:
Đối với trường hợp này dấu hiệu nhận biết thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội chứ không phải dấu hiệu khách quan như trường hợp phạm tội đối với phụ nữ có thai quy định ở một số tội phạm khác. Nghĩa là việc xác định yếu tố cấu thành này không phụ thuộc vào vấn đề người phụ nữ đó có thai là thật hay giả mà phụ thuộc vào nhận thức của người phạm tội. Trong trường hợp, phụ nữ sử dụng trái phép chất ma tuý có thai thật, nhưng có căn cứ để xác định người phạm tội không biết họ đang có thai thì cũng không thuộc trường hợp phạm tội đối với phụ nữ mà biết là có thai. Ngược lại, trong trường hợp người phụ nữ sử dụng trái phép không có thai, người phạm tội tin lầm là có thai nhưng vẫn tổ chức cho họ sử dụng trái phép chất ma tuý thì vẫn bị coi là phạm tội đối với phụ nữ mà biết là có thai.
- Đối với người đang cai nghiện:
Đây là trường hợp tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cho người đang cai nghiện. Người đang cai nghiện được xác định là người đã nghiện ma tuý bắt đầu cai nghiện và đến thời điểm người phạm tội thực hiện tội phạm mà chưa kết thúc thời gian cai nghiện ở trong trung tâm cai nghiện hoặc cai nghiện tại nơi ở theo sự chỉ dẫn của cơ quan chuyên môn.
Đối với trường hợp này, dấu hiệu nhận biết lại thuộc hành vi khách quan là người phạm tội đối với người đang cai nghiện mà không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của người phạm tội (có biết hay không đối tượng sử dụng là người đang cai nghiện).
Nếu người nghiện ma tuý đã có quyết định của cơ quan có thẩm quyền đưa vào trung tâm cai nghiện nhưng vì lý do khách quan nên chưa vào trung tâm cai nghiện mà tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý cho người này thì không thuộc trường hợp phạm tội đối với người đang cai nghiện.
Nếu người tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuy không biết người mà mình đưa chất ma tuý vào cơ thể của họ là người đang cai nghiện thì cũng không thuộc trường hợp phạm tội này.
Nếu người tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy không cần biết người mà mình đưa chất ma tuý vào cơ thể của họ là người đang cai nghiện hay không miễn mà vẫn tổ chức cho họ sử dụng trái phép chất ma tuý, nhưng sau khi đã giúp họ sử dụng trái phép chất ma tuý mới biết họ đang cai nghiện thì vẫn bị coi là phạm tội đối với “người đang cai nghiện”.
- Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%:
Trường hợp phạm tội này quy định người phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% là trường hợp do tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý nên đã làm cho người sử dụng bị gặp biến chứng (sốc thuốc, bị tai biến,…) dẫn đến tổn hại sức khoẻ cho người sử dụng.
Như vậy, khi xác định trường hợp phạm tội này cần chú ý đến mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Nếu hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra tổn hại đến sức khỏe cho người khác thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ngoài ra, đối tượng bị ảnh hưởng về sức khỏe trong trường hợp này không chỉ là người sử dụng ma túy mà còn có thể là người khác không liên quan.
- Gây bệnh nguy hiểm cho người khác:
Trường hợp phạm tội này không phải là tình tiết thuộc mặt chủ quan mà là tình tiết thuộc mặt khách quan của tội phạm (tình tiết về hậu quả) và hậu quả này người phạm tội không mong muốn nhưng có thể bỏ mặc hoặc có thể ngoài ý muốn chủ quan (không nhận thức được hậu quả). Bệnh nguy hiểm mà người phạm tội gây cho người khác là do hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý gây ra nhưng về ý thức chủ quan của người phạm tội thì có thể họ không biết là hành vi của mình sẽ gây ra bệnh đó cho người sử dụng trái phép chất ma tuý; trong trường hợp chưa gây bệnh thì không bị coi là phạm tội trong trường hợp này.
- Tái phạm nguy hiểm:
Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
+ Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
+ Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
4.2. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015:
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên hoặc gây chết người:
Trường hợp gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 của Điều 255 Bộ luật Hình sự 2015, chỉ khác ở chỗ tỷ lệ thương tật mà người phạm tội gây ra cho người khác là từ 61% trở lên. Trường hợp gây hậu quả chết người cũng tương tự như trường hợp gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác nhưng chỉ khác là hậu quả của hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý gây ra hậu quả chết người chứ không phải chỉ gây thương tích. Tuy nhiên, hậu quả chết người này là ngoài sự mong muốn của người phạm tội và không phải do chủ đích. Do đó, cần phân biệt với tội giết người quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015.
- Gây tổn hại cho sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%:
Trường hợp phạm tội này cũng xác định trên cơ sở tỷ lệ thương tật như các điều khoản tương tự đối với hành vi này nhưng khác nhau ở chỗ phải có từ hai người bị tổn hại đến sức khoẻ trở lên mà mỗi người đều có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; hậu quả ở đây phải nguyên nhân tất yếu của tội phạm gây ra.
- Gây bệnh nguy hiểm cho 02 người trở lên:
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp gây bệnh nguy hiểm cho người khác, chỉ khác ở chỗ trong trường hợp này phải có từ 02 người trở lên bị gây bệnh nguy hiểm.
- Đối với trẻ em dưới 13 tuổi:
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 của Điều 255 Bộ luật Hình sự 2015, chỉ cần xác định tuổi thật của người sử dụng chất ma tuý mà không cần phải xác định ý thức chủ quan của người phạm tội có biết người mà họ tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý dưới 13 tuổi hay không.
4.3. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 4 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015:
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 255 BLHS năm 2015 thì bị phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên:
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% quy định tại điểm b khoản 3 của Điều 255 Bộ luật Hình sự 2015, chỉ khác nhau ở chỗ tỷ lệ thương tật của nhiều người từ 61% trở lên; phản ánh mức độ nguy hiểm cao hơn của hành vi vi phạm.
- Làm chết 02 người trở lên:
Số lượng người chết ở đây được xác định từ 02 người trở lên do tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý. Chỉ những người chết do hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý trực tiếp gây ra mới thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015, không phân biệt gây ra chết ngay hay sau một thời gian mới tử vong.
Quy định tại điều khoản này đã bỏ quy định “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác” quy định tại điểm b khoản 4 Điều 197 Bộ luật Hình sự năm 1999. Việc loại bỏ quy định này là phù hợp với tình hình thực tế do thực tiễn xét xử cũng chưa có trường hợp nào xảy ra cần phải xác định tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Lưu ý:
Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT BCA–VKSNDTC–TANDTC–BTP : Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây theo sự chỉ huy, phân công, điều hành của người khác thì bị coi là đồng phạm về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy: đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác; cung cấp trái phép chất ma túy cho người khác để họ sử dụng trái phép chất ma túy; chuẩn bị chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào (mua, xin, tàng trữ, sản xuất…) nhằm đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác, chuẩn bị địa điểm (thuê địa điểm, mượn địa điểm, sử dụng địa điểm không thuộc quyền chiếm hữu của mình hoặc đang do mình quản lý để làm nơi đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác); chuẩn bị dụng cụ, phương tiện dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào (mua, xin, tàng trữ…) nhằm sử dụng để đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác; tìm người sử dụng chất ma túy để đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể của họ .
Như vậy, khi nghiên cứu và áp dụng quy định về Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cũng như các tội phạm khác có liên quan cũng cần lưu ý đến việc xác định đồng phạm đối với tội phạm này.
Nhìn chung, quy định về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy tại Bộ luật Hình sự năm 2015 chỉ sửa đổi về mặt kỹ thuật lập pháp, không thay đổi nhiều so với Bộ luật Hình sự năm 1999. Tuy nhiên, việc quy định rõ các trường hợp từ “nhiều người”, “nhiều lần”, “người chưa thành niên từ đủ 13 tuổi trở lên”, “phụ nữ mà biết là đang có thai” thành “02 người trở lên”, “phạm tội 02 lần trở lên”, “người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi”, “phụ nữ mà biết là có thai” cũng giải quyết khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật của người tiến hành tố tụng và cơ quan, tổ chức và cá nhân khác có liên quan.
Bên cạnh đó, việc bỏ quy định “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác” tại Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng phản ánh chính xác thực tiễn xét xử vào văn bản pháp luật, thể hiện các nhà lập pháp đã thường xuyên xem xét, đánh giá thực trạng thi hành pháp luật nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng.
5. Phân biệt với Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy:
Tiêu chí | Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 255 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 256 Bộ luật Hình sự 2015) |
Khái niệm | Là hành vi chủ mưu, cầm đầu, điều hành, sắp xếp, bố trí và hướng dẫn người khác sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào. | Là hành vi cho thuê, cho mượn địa điểm, phương tiện hoặc thực hiện hành vi khác để người khác sử dụng trái phép chất ma túy nhưng không trực tiếp tổ chức. |
Mục đích | Chủ động tổ chức, điều hành việc sử dụng ma túy và có tính chất tích cực, chủ động cao. | Thụ động hơn, chỉ tạo điều kiện, bao che hoặc chứa chấp việc sử dụng ma túy. |
Tính chất hành vi | Mang tính chủ động, quyết định trong việc hình thành và duy trì hành vi sử dụng ma túy. | Mang tính tiếp tay và hỗ trợ cho việc sử dụng ma túy xảy ra. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 2: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khung 3: Phạt tù từ 15 năm đến 20 năm. Khung 4: Phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân. | Khung 1: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 2: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. |
Mức độ nguy hiểm | Nguy hiểm hơn, vì là hành vi tổ chức có thể lôi kéo, ép buộc hoặc hướng dẫn nhiều người sử dụng ma túy; từ đó gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. | Nguy hiểm thấp hơn nhưng vẫn nghiêm trọng vì có hành vi dung túng và tiếp tay cho việc sử dụng ma túy trái phép. |
6. Bản án điển hình của Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy:
- Tên bản án:
Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 30/2024/HS-ST ngày 17/01/2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hà, tỉnh Đồng Nai.
- Nội dung vụ án:
Khoảng 23 giờ 15 phút ngày 14/8/2023, tại phòng trọ số 4 nhà trọ tổ 7B, khu phố 3, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai do Nguyễn Văn C thuê ở, C có hành vi cung cấp ma túy và dụng cụ sử dụng ma túy tổ chức cho C cùng với Nguyễn Ngọc H và Thái Kỳ V sử dụng trái phép chất ma túy thì bị Công an phường T, thành phố Biên Hòa kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.
Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tệ nạn xã hội. Bị cáo bản thân là người nghiện ma túy, sử dụng trái phép chất ma túy, còn có hành vi cung cấp ma túy, dụng cụ sử dụng ma túy cho người khác sử dụng thể hiện thái độ xem thường pháp luật.
Bị cáo là người có nhân thân xấu, nhiều lần bị xử lý hình sự, bị cáo mới chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội nên cần xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.
- Quyết định của Tòa án:
+ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
+ Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn C 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 14/8/2023.
THAM KHẢO THÊM: