Tội phá hoại chính sách đoàn kết được quy định tại Điều 116 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2025), xử lý hành vi xâm phạm khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết tôn giáo. Đây là tội xâm phạm an ninh quốc gia, ảnh hưởng trực tiếp đến ổn định chính trị và trật tự xã hội. Bài viết sẽ phân tích yếu tố cấu thành tội phạm và hình phạt áp dụng theo quy định pháp luật.
Mục lục bài viết
1. Khái quát về tội phá hoại chính sách đoàn kết:
1.1. Vị trí của tội danh trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia:
Tội phá hoại chính sách đoàn kết được quy định tại Điều 116 Bộ luật Hình sự năm 2015 và được xếp vào Chương XIII – Các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Vị trí này cho thấy đây là một trong những tội phạm có mức độ nguy hiểm đặc biệt, bởi nó trực tiếp đe dọa đến sự ổn định chính trị, trật tự xã hội và nền tảng vững chắc của Nhà nước là khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Khác với các tội xâm phạm an ninh khác (như phản bội Tổ quốc, gián điệp…), tội phạm này tập trung vào hành vi gây chia rẽ, phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc, tôn giáo và quốc tế. Điểm đáng chú ý là theo khoản 1 Điều 116 Bộ luật Hình sự năm 2015, hành vi phạm tội phải gắn với mục đích chống chính quyền nhân dân thì mới cấu thành tội phạm. Như vậy, tội danh này không chỉ điều chỉnh hành vi gây chia rẽ thông thường mà đặc biệt nhấn mạnh đến tính chất chính trị an ninh quốc gia.
1.2. Ý nghĩa của việc bảo vệ khối đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo và quốc tế:
Hiến pháp năm 2013 tại Điều 5 khẳng định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển. Điều này tạo ra nền tảng pháp lý tối cao cho việc bảo vệ khối đại đoàn kết dân tộc. Đồng thời, Điều 24 Hiến pháp năm 2013 bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ, gây thù hằn giữa những người có tôn giáo và không có tôn giáo, cũng như giữa các tôn giáo khác nhau.
Dưới góc độ pháp lý, việc quy định tội phá hoại chính sách đoàn kết là cơ chế để xử lý những hành vi lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo hoặc quan hệ quốc tế nhằm gây bất ổn xã hội, chống phá Nhà nước. Về phương diện xã hội, nó bảo đảm sự ổn định, bình đẳng và tin cậy lẫn nhau giữa các cộng đồng dân cư. Về phương diện chính trị, nó củng cố vững chắc chính quyền nhân dân, tránh nguy cơ bị chia rẽ từ bên trong. Ngoài ra, việc xử lý nghiêm minh tội phạm này còn góp phần bảo vệ chính sách đoàn kết quốc tế, một nguyên tắc xuyên suốt trong đường lối đối ngoại của Việt Nam được thể hiện tại Điều 12 Hiến pháp năm 2013, đó là chính sách hòa bình, hữu nghị, hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế.
Như vậy, việc hình sự hóa hành vi phá hoại chính sách đoàn kết không chỉ mang ý nghĩa pháp lý mà còn có giá trị bảo đảm sự thống nhất về ý chí và hành động của toàn xã hội, qua đó củng cố nền tảng chính trị, pháp lý của Nhà nước và bảo vệ lợi ích căn bản của quốc gia.
2. Cấu thành tội phạm tội phá hoại chính sách đoàn kết theo Điều 116:
2.1. Khách thể bị xâm phạm:
Tội phá hoại chính sách đoàn kết xâm phạm đến an ninh quốc gia, cụ thể là chính sách đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo và đoàn kết quốc tế. Đây là nền tảng bảo đảm cho sự ổn định chính trị xã hội, được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận tại Điều 5, Điều 24 và Điều 12, trong đó nhấn mạnh nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc, quyền tự do tín ngưỡng và đường lối đối ngoại hòa bình, hợp tác. Do đó, bất kỳ hành vi nào gây chia rẽ, kỳ thị, ly khai dân tộc hay phá hoại chính sách đoàn kết quốc tế đều trực tiếp xâm phạm đến lợi ích căn bản của Nhà nước và trật tự xã hội.
2.2. Mặt khách quan của tội phạm:
Theo khoản 1 Điều 116 Bộ luật Hình sự năm 2015, hành vi khách quan bao gồm: Gây chia rẽ giữa các tầng lớp nhân dân và chính quyền, gây hằn thù, kỳ thị dân tộc, chia rẽ tôn giáo hoặc phá hoại chính sách đoàn kết quốc tế. Điểm đặc thù là hành vi phải gắn với mục đích chống chính quyền nhân dân thì mới cấu thành tội phạm. Nếu hành vi chỉ dừng lại ở việc vi phạm hành chính, gây mất đoàn kết ở mức độ dân sự mà không nhằm mục đích chống chính quyền thì chưa cấu thành tội này.
Ngoài ra, hành vi có thể được thực hiện bằng nhiều phương thức: Lời nói, văn bản, phát tán tài liệu, sử dụng mạng xã hội, hoặc tổ chức các hoạt động gây chia rẽ. Về hậu quả, pháp luật không yêu cầu phải có thiệt hại cụ thể mới cấu thành tội phạm, chỉ cần chứng minh hành vi mang tính chất phá hoại chính sách đoàn kết đã đủ yếu tố cấu thành.
2.3. Mặt chủ quan của tội phạm:
Lỗi của người phạm tội được xác định là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có khả năng gây chia rẽ, làm suy yếu khối đoàn kết toàn dân nhưng vẫn mong muốn thực hiện nhằm chống chính quyền nhân dân. Yếu tố mục đích là dấu hiệu bắt buộc – nếu không chứng minh được ý chí chống chính quyền nhân dân thì hành vi không bị xử lý theo Điều 116 Bộ luật Hình sự năm 2015 mà có thể xử lý theo tội danh khác hoặc xử lý hành chính. Đây là điểm phân biệt quan trọng so với các hành vi gây mất đoàn kết thông thường trong đời sống xã hội.
2.4. Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội phá hoại chính sách đoàn kết là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định. Căn cứ Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Trong một số trường hợp, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi cũng có thể phải chịu trách nhiệm nếu hành vi được coi là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Xét về tính chất, tội phá hoại chính sách đoàn kết thuộc nhóm tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, thường được coi là đặc biệt nghiêm trọng, do đó, người từ 14 tuổi trở lên nếu thực hiện hành vi phạm tội đều có thể bị xử lý hình sự.
3. Hình phạt áp dụng đối với tội phá hoại chính sách đoàn kết:
3.1. Khung hình phạt cơ bản:
Theo khoản 1 Điều 116 Bộ luật Hình sự năm 2015, người thực hiện một trong các hành vi được liệt kê tại các điểm a, b, c, d (gây chia rẽ giữa các tầng lớp nhân dân với nhau hoặc với chính quyền, kích động hằn thù, kỳ thị dân tộc, chia rẽ tôn giáo, phá hoại việc thực hiện chính sách đoàn kết quốc tế) với mục đích nhằm chống chính quyền nhân dân bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Yếu tố “mục đích nhằm chống chính quyền nhân dân” là dấu hiệu bắt buộc định tội; pháp luật không đòi hỏi phải có hậu quả cụ thể mới cấu thành. Khi quyết định hình phạt trong khung này, Tòa án cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm, phương thức thủ đoạn, phạm vi ảnh hưởng xã hội, theo nguyên tắc quyết định hình phạt tại Điều 50 Bộ luật Hình sự.
3.2. Hình phạt trong trường hợp ít nghiêm trọng:
Khoản 2 Điều 116 Bộ luật Hình sự quy định trường hợp phạm tội “ít nghiêm trọng” thì mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. “Ít nghiêm trọng” ở đây được hiểu theo đánh giá của Tòa án về tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi cụ thể trong bối cảnh vụ án: phạm vi kích động chia rẽ hẹp, thời gian ngắn, mức độ tác động xã hội hạn chế, chưa đến mức phải áp dụng khung cao của khoản 1. Việc lượng hình trong khung từ 02 năm đến 07 năm vẫn tuân theo Điều 50 Bộ luật Hình sự, đồng thời có thể xem xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng theo Điều 51 và Điều 52 Bộ luật Hình sự (sẽ phân tích ở mục “Định khung tăng nặng, giảm nhẹ”).
3.3. Hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội:
Khoản 3 Điều 116 Bộ luật Hình sự quy định người chuẩn bị phạm tội này bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khái niệm “chuẩn bị phạm tội” được nêu tại khoản 1 Điều 14 Bộ luật Hình sự: Là hành vi tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện, tạo điều kiện khác hoặc thành lập/ tham gia nhóm nhằm thực hiện tội phạm. Theo khoản 2 Điều 14 Bộ luật Hình sự, người chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng phải chịu trách nhiệm hình sự. Riêng với Điều 116, nhà làm luật đã quy định riêng mức hình phạt cho giai đoạn chuẩn bị, thể hiện chính sách hình sự nghiêm khắc, mang tính phòng ngừa cao đối với nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia. Khi áp dụng mức 06 tháng đến 03 năm, Tòa án xem xét mức độ chuẩn bị, vai trò của người tham gia, khả năng thực tế đưa đến việc phạm tội hoàn thành và các tình tiết về nhân thân theo Điều 50, Điều 51, Điều 52 Bộ luật Hình sự.
4. Định khung tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
4.1. Các tình tiết tăng nặng thường gặp theo Điều 52 Bộ luật Hình sự:
Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định một số tình tiết làm tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng chung cho mọi tội phạm, trong đó có tội phá hoại chính sách đoàn kết. Chẳng hạn, phạm tội có tổ chức (Điểm a Khoản 1 Điều 52) được hiểu là nhiều người cùng bàn bạc, phân công vai trò nhằm gây chia rẽ, hằn thù giữa các tầng lớp nhân dân. Tình tiết này cho thấy mức độ nguy hiểm cao hơn nhiều so với hành vi đơn lẻ.
Một ví dụ khác là phạm tội trong thời kỳ chiến tranh hoặc tình trạng khẩn cấp (Điểm l Khoản 1 Điều 52). Khi đất nước đang trong giai đoạn nhạy cảm, mọi hành vi chia rẽ, phá hoại chính sách đoàn kết sẽ tác động trực tiếp đến an ninh quốc gia, do đó mức hình phạt có thể được áp dụng ở khung cao nhất. Ngoài ra, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội (Điểm c Khoản 1 Điều 52) cũng là tình tiết điển hình, khi người giữ vị trí trong tổ chức xã hội hoặc chính quyền đã sử dụng uy tín để gây chia rẽ, khiến hậu quả càng nghiêm trọng.
4.2. Các tình tiết giảm nhẹ có thể áp dụng theo Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Bên cạnh đó, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định nhiều tình tiết giảm nhẹ, giúp Tòa án cân nhắc khi quyết định hình phạt. Ví dụ, người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải (Điểm s Khoản 1 Điều 51) có thể làm giảm một phần trách nhiệm, bởi thái độ này cho thấy ý thức khắc phục hậu quả và mong muốn cải tạo.
Một tình tiết quan trọng khác là người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả (Điểm b Khoản 1 Điều 51). Trong tội phá hoại chính sách đoàn kết, nếu người phạm tội chủ động xin lỗi công khai, chấm dứt hành vi gây chia rẽ, hợp tác với cơ quan chức năng để khôi phục sự đoàn kết thì đây có thể được coi là yếu tố giảm nhẹ đáng kể. Ngoài ra, nếu phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng (Điểm i Khoản 1 Điều 51), Tòa án cũng có thể cân nhắc áp dụng hình phạt nhẹ hơn, thậm chí cho hưởng án treo nếu đủ điều kiện.
4.3. Thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:
Trong thực tiễn xét xử, Tòa án luôn xem xét toàn diện các yếu tố tăng nặng và giảm nhẹ khi quyết định hình phạt đối với tội phá hoại chính sách đoàn kết. Trường hợp bị cáo phạm tội có tổ chức, gây chia rẽ giữa các cộng đồng dân tộc với mục đích chống chính quyền nhân dân thì thường bị áp dụng khung hình phạt nghiêm khắc, từ 07 đến 15 năm tù theo Khoản 1 Điều 116 Bộ luật Hình sự. Ngược lại, nếu hành vi chỉ dừng lại ở mức độ ít nghiêm trọng, người phạm tội hợp tác điều tra, thể hiện thái độ ăn năn thì có thể chỉ bị xử phạt từ 02 đến 07 năm tù theo Khoản 2 Điều 116.
Thực tiễn cũng ghi nhận, trong nhiều vụ án, việc người phạm tội có nhân thân tốt, có nhiều đóng góp cho xã hội trước đó, hoặc hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được Tòa án coi là căn cứ giảm nhẹ theo Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, dù có nhiều tình tiết giảm nhẹ, Tòa án vẫn phải bảo đảm nguyên tắc không để hình phạt dưới mức tối thiểu của khung hình phạt nếu không có căn cứ pháp luật cụ thể.
5. So sánh với một số tội danh dễ gây nhầm lẫn:
5.1. So sánh với tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế xã hội (Điều 115 Bộ luật Hình sự năm 2015):
Điều 115 Bộ luật Hình sự quy định về tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế xã hội. Điểm cốt lõi của tội danh này là hành vi nhằm chống chính quyền nhân dân thông qua việc phá hoại hoặc cản trở quá trình thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Khách thể bị xâm phạm trực tiếp là an ninh chính trị và trật tự quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước.
Trong khi đó, tội phá hoại chính sách đoàn kết theo Điều 116 Bộ luật Hình sự năm 2015 lại tập trung vào hành vi phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo và quốc tế, xâm phạm trực tiếp đến chính sách đoàn kết toàn dân tộc, một trong những nền tảng cốt lõi của chế độ chính trị Việt Nam.
Điểm khác biệt lớn nhất giữa hai tội danh nằm ở khách thể bị xâm hại: Nếu Điều 115 nhằm bảo vệ sự ổn định về kinh tế xã hội, thì Điều 116 nhằm bảo vệ sự vững chắc của khối đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo và quan hệ quốc tế.
Ngoài ra, hành vi điển hình trong tội phạm quy định tại Điều 115 có thể là: Phá hoại kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội; tung tin thất thiệt gây rối loạn thị trường; chống phá các chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước. Trong khi đó, Điều 116 lại hướng đến các hành vi kích động chia rẽ dân tộc, tôn giáo, gây hằn thù và ly khai trong cộng đồng.
Như vậy, để phân biệt hai tội danh này, cần xem xét mục đích chống chính quyền nhân dân, khách thể bị xâm phạm và hậu quả xã hội. Đây chính là căn cứ quan trọng để các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đúng điều luật, tránh nhầm lẫn trong định tội.
5.2. So sánh với tội gây rối trật tự công cộng (Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015):
Điều 318 Bộ luật Hình sự quy định về tội gây rối trật tự công cộng, trong đó nhấn mạnh đến hành vi làm mất an ninh, trật tự nơi công cộng, xâm phạm sự ổn định xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến nếp sống, sinh hoạt của cộng đồng. Khách thể bị xâm phạm chủ yếu là trật tự công cộng.
So với Điều 116 Bộ luật Hình sự năm 2015, sự khác biệt rõ ràng là ở mục đích chính trị. Tội phá hoại chính sách đoàn kết chỉ cấu thành khi người phạm tội thực hiện hành vi nhằm chống chính quyền nhân dân, có tính chất xâm phạm đến an ninh quốc gia. Trong khi đó, tội gây rối trật tự công cộng không đòi hỏi yếu tố mục đích chính trị mà chủ yếu là hành vi gây rối, ảnh hưởng đến đời sống bình thường của xã hội, chẳng hạn như tụ tập gây náo loạn, cản trở giao thông, gây mất trật tự nơi công cộng.
Như vậy, cùng là hành vi gây mất ổn định xã hội, nhưng nếu có mục đích chống chính quyền nhân dân và tác động trực tiếp đến chính sách đoàn kết dân tộc, tôn giáo, quốc tế thì thuộc Điều 116 Bộ luật Hình sự năm 2015. Còn nếu chỉ đơn thuần làm mất trật tự công cộng mà không có động cơ chính trị thì thuộc Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015.
THAM KHẢO THÊM: