Tội mua dâm, tội bán dâm là gì? Người mua bán dâm bị xử lý thế nào? Yếu tố cấu thành tội mua dâm, tội bán dâm? Mức phạt mua bán dâm? Người mua dâm, bán dâm sẽ bị xử lý như thế nào?
Mua dâm, bán dâm vẫn đang là hành vi bị cấm ở pháp luật Việt Nam. Theo đó mua dâm, bán dâm vẫn là một hoạt động phạm tội và người có hành vi mua bán dâm sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Vậy quy định về hành vi mua dâm, bán dâm trong pháp luật hiện tại là như thế nào, và mức phạt đối với hành vi này là ra sao?
Mục lục bài viết
- 1 1. Thế nào là tội mua dâm, bán dâm?
- 2 2. Hành vi mua dâm bị xử lý như thế nào?
- 3 3. Hành vi bán dâm bị xử lý như thế nào?
- 4 4. Thời hạn tạm giữ hành chính đối với hành vi mua dâm:
- 5 5. Tội mua dâm đối với người chưa thành niên (dưới 18 tuổi):
- 6 6. Hành vi lợi dụng kinh doanh, dịch vụ để hoạt động mua dâm, bán dâm:
1. Thế nào là tội mua dâm, bán dâm?
Căn cứ theo Điều 3 Pháp lệnh phòng chống mại dâm năm 2003 quy định về giải thích từ ngữ:
– Bán dâm được hiểu là việc một người thực hiện giao cấu với người khác để đổi lại là nhận được những lợi ích về vật chất, có thể là tiền hoặc là những vật chất có giá trị khác.
– Mua dâm được hiểu là hành vi một người dùng tiền, hoặc dùng những lợi ích vật chất khác trả cho một người để được thực hiện hành vi giao cấu. Lợi ích vật chất được hiểu rất đa dạng, có thể là tiền, nhà cửa, xe, trang sức, hoặc bất cứ một đồ có giá trị khác…
Như vậy mua dâm, bán dâm đều là hành vi giao cấu với người khác, người mua dâm là người trả tiền trả tiền để được giao cấu và người bán dâm là người nhận tiền để thực hiện hành vi giao cấu.
Luật sư
2. Hành vi mua dâm bị xử lý như thế nào?
Hình thức xử lý đối với người có hành vi mua dâm được quy định tại Điều 22 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm năm 2003. Người mua dâm tùy theo tính chất mức độ vi phạm mà có thể bị phạt hành chính, phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền. Trường hợp người mua dâm biết rõ mình nhiễm HIV mà cố tình không sử dụng các biện pháp an toàn để lây bệnh cho người khác, hoặc thực hiện hành vi mua dâm với người chưa đủ 18 tuổi thì có thể bị xử lý hình sự.
– Về xử phạt hành chính đối với hành vi mua dâm.
Mức xử phạt hành chính đối với hành vi mua dâm được quy định cụ thể tại Nghị định 178/2004/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh phòng chống mại dâm như sau:
+ Đối với người có hành vi mua dâm, chỉ cần phát hiện người nào có hành vi mua dâm thì sẽ bị phạt hành chính với mức phạt từ 500 ngàn đồng đến 1 triệu đồng.
+ Đối với trường hợp mua dâm nhiều người cùng một lúc thì bị phạt tiền từ 02 triệu đồng đến 05 triệu đồng.
+ Phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 10 triệu đồng đối với một trong các trường hợp sau đây:
Mua dâm có tính chất đồi trụy.
Lôi kéo, ép buộc người khác cùng mua dâm.
– Phạt hình sự đối với hành vi mua dâm với người dưới 18 tuổi.
Áp dụng truy tố hình sự đối với trường hợp người từ đủ 18 tuổi trở lên thực hiện hành vi mua dâm với người dưới 18 tuổi. Mức phạt đối với trường hợp mua dâm với người chưa đủ 18 tuổi được quy định tại Điều 329 Bộ Luật hình sự năm 2015 như sau:
+ Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối với trường hợp phát hiện người từ đủ 18 tuổi trở lên có hành vi mua dâm với người dưới 18 tuổi. Trừ trường hợp giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi thì sẽ bị xử phạt theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 142 về Hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
+ Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm đối với trường hợp:
Có hành vi mua dâm từ hai lần trở lên.
Mua dâm với trẻ em trong độ tuổi từ đủ 13 tuổi nhưng chưa đến 16 tuổi.
Hành vi mua dâm gây tổn hại cho sức khỏe cho người bị xâm phạm, tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân từ 31% đến 60%.
+ Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm đối với trường hợp:
Phạm tội từ 2 lần trở lên và cả hai lần đều là với trẻ em đủ 13 tuổi nhưng chưa đến 16 tuổi.
Tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân khi bị tổn thương cơ thể là từ 61% trở lên.
Ngoài ra người phạm tội mua dâm với người dưới 18 tuổi còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng tùy theo mức độ, tính chất phạm tội.
3. Hành vi bán dâm bị xử lý như thế nào?
Hình thức xử lý đối với người có hành vi bán dâm được quy định tại Điều 23 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm năm 2003. Người có hành vi bán dâm tùy theo mức độ nghiêm trọng có thể bị xử phạt hành chính hoặc áp dụng các biện pháp cải tạo, giáo dục tại địa phương (xã, phường, thị trấn), trường hợp nghiêm trọng hơn có thể đưa đến cơ sở chữa bệnh. Trong trường hợp người thức hiện hành vi bán dâm là người nước ngoài thì có thể áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính, cảnh cáo, phạt tiền, hoặc trong trường hợp cần thiết có thể áp dụng biện pháp trục xuất khỏi lãnh thổ Việt Nam.
Nếu người bán dâm biết rõ mình bị nhiễm HIV mà vẫn cố ý lây truyền bệnh cho người khác thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.
Về mức xử phạt hành chính đối với người có hành vi bán dâm được quy định tại Nghị định 178/2004/NĐ-CP cụ thể như sau:
+ Trường hợp phát hiện người nào có hành vi bán dâm thì người đó có thể bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền, số tiền phạt từ 100 ngàn đồng đến 300 ngàn đồng.
+ Trường hợp cùng một lúc bán dâm cho nhiều người thì mức phạt tiền là từ 300 ngàn đồng đến 500 ngàn đồng.
+ Trường hợp bán dâm mang tính chất đồi trụy có thể phải chịu mức phạt tiền từ 500 ngàn đồng đến 01 triệu đồng.
Ngoài ra người bán dâm từ đủ 14 tuổi trở lên, hoạt động bán dâm có tính chất thường xuyên, có nơi cư trú nhất định thì có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại địa phương (xã, phường, thị trấn) đây là biện pháp được áp dụng khi nhận thấy không cần cách ly đối tượng khỏi cộng đồng. Thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục này là từ 03 tháng đến 06 tháng, tùy theo nhân thân, tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ của người vi phạm.
Trường hợp người bán dâm đủ 16 tuổi trở lên, hoạt động mại dâm thường xuyên liên tục đã được áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, hoặc không có nơi cư trú ổn định thì áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh. Và thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh đối với người bán dâm là từ 03 tháng đến mười 18 tháng.
Đối với trường hợp người nước ngoài hoạt động bán dâm ở Việt Nam thì tùy từng trường hợp có thể bị phạt tiền theo quy định, và bị trục xuất khỏi Việt Nam.
4. Thời hạn tạm giữ hành chính đối với hành vi mua dâm:
Tóm tắt câu hỏi:
Quê tôi ở Lâm Đồng, đã bỏ ra Hà Nội cách đây 3 năm tuy nhiên không có nơi lưu trú. Trong một lần đi mua dâm, tôi bị Công an bắt quả tang và bị tạm giữ 24 giờ, sau đó được đưa vào lưu trú tạm thời tại cơ sở chữa bệnh. Xin hỏi, việc Công an tạm giữ tôi 24 giờ có đúng không? Thời hạn này được quy định ở văn bản pháp luật nào của nhà nước?
Luật sư tư vấn:
Công an tạm giữ 24 giờ đối với bạn là đối tượng mua bán dâm không có nơi cư trú nhất định trước khi đưa vào lưu trú tạm thời tại cơ sở chữa bệnh là đúng pháp luật.
Điều 11 của Nghị định số 43/2005/NĐ-CP quy định thời hạn quyết định việc đưa vào lưu trú tạm thời tại cơ sở chữa bệnh đối với người nghiện ma tuý, người bán dâm không có nơi cư trú nhất định như sau:
– Thời hạn xem xét quyết định việc đưa vào lưu trú tạm thời tại cơ sở chữa bệnh không quá 12 giờ, trường hợp cần thiết, thời hạn này có thể kéo dài hơn nhưng không được quá 24 giờ; đối với vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh, hải đảo thì thời hạn tạm giữ có thể kéo dài hơn nhưng không được quá 48 giờ, kể từ thời điểm bắt đầu tạm giữ người vi phạm. Quá thời hạn trên mà Trưởng Công an cấp huyện không ra quyết định đưa vào lưu trú tạm thời tại cơ sở chữa bệnh thì phải thả ngay người đã bị tạm giữ.
– Thủ tục, thẩm quyền tạm giữ người và chế độ đối với người bị tạm giữ được thực hiện theo quy định của pháp luật về tạm giữ người theo thủ tục hành chính.
Quyết định đưa vào lưu trú tạm thời tại cơ sở chữa bệnh được gửi cho người bị đưa vào lưu trú tạm thời tại cơ sở chữa bệnh, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, cơ quan Lao động – Thương binh và Xã hội,
5. Tội mua dâm đối với người chưa thành niên (dưới 18 tuổi):
Tội mua dâm người chưa thành niên có một số đặc điểm sau:
– Hành vi khách quan: hành vi khách quan của tội mua dâm người chưa thành niên là hành vi mua dâm. Theo hướng dẫn của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm 2003 thì mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu. Hành vi khách quan này có thể được biểu hiện dưới một trong các hình thức sau:
+) Dùng tiền bạc hoặc các lợi ích vật chất khác để dụ dỗ, thuyết phục, mua chuộc người chưa thành niên để họ đồng ý bán dâm cho mình: Đây là trường hợp người phạm tội sử dụng tiền (có thể là VNĐ hoặc ngoại tệ) hay các lợi ích vật chất (các loại kim đá quý, vật, giấy tờ có giá trị…) để dụ dỗ, thuyết phục, mua chuộc người chưa thành niên từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi đồng ý thực hiện hành vi giao cấu với mình
+) Lợi dụng hoàn cảnh khó khăn về vật chất cũng như tinh thần của người chưa thành niên để đặt điều kiện, yêu sách mua dâm và thực hiện hành vi giao cấu.
Trong trường hợp này, người phạm tội lợi dụng người chưa thành niên vì những nguyên nhân khác nhau, đang rơi vào tình trạng khó khăn, quẫn bách về kinh tế (gia đình gặp nạn, bản thân không có nghề nghiệp…), hoặc có tổn thương tình cảm (bị đánh đập, chửi mắng…) để mua dâm (người phạm tội thỏa thuận trả tiền hoặc lợi ích vật chất nào đó để thực hiện hành vi giao cấu với người chưa thành niên)
+) Thỏa thuận việc mua bán dâm với người chưa thành niên
Thỏa thuận được việc mua bán dâm với người chưa thành niên có thể là trường hợp thỏa thuận trực tiếp giữa người phạm tội với người chưa thành niên về việc mua bán dâm hoặc thông qua người thứ ba – người môi giới. Việc thỏa thuận này có thể do người mua dâm hoặc người bán dâm là người chưa thành niên chủ động. Đối tượng môi giới rất đa dạng, có thể là chủ hoặc nhân viên nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ, lái xe ôm, xe tắc xi…
– Thời điểm tội phạm hoàn thành: tội phạm hoàn thành ngay từ khi người phạm tội có hành vi thỏa thuận mua dâm với người chưa thành niên.
6. Hành vi lợi dụng kinh doanh, dịch vụ để hoạt động mua dâm, bán dâm:
Tóm tắt câu hỏi:
Xin luật sư tư vấn giải đáp tình huống xảy ra như sau: – Nhân viên T của công ty A có giấy phép trong hoạt động masage. Công ty có đầy đủ giấy phép kinh doanh. Công ty có bản cam kết Phòng, chống mại dâm được cơ quan chức năng xác nhận. Công ty yêu cầu các nhân viên ký Bản cam kết không được có các hành vi mua bán dâm, kích dục khác… và các nhân viên đều ký vào bản cam kết.
– Vào một ngày, Đoàn kiểm tra liên ngành kiểm tra công ty và bắt quả tang nhân viên T có hành vi kích dục cho khách và nhân tiền 300.000 đồng của khách. Đoàn kiểm tra lập biên bản Xử lý VPHC đối với công ty A vi phạm Khoản 2, Điều 25, Nghị định 167 về hành vi :sử dụng việc mua dâm, bán dâm và các hoạt động tình dục khác làm phương thức kinh doanh.
– Tuy nhiên công ty A không nhận lỗi này vì lý do:
+ Công ty đã có nội quy, quy chế về PCMD đăng ký với cơ quan chức năng. Mặt khác, Công ty đã yêu cầu từng nhân ký cam kết về các hành vi cấm liên quan PCMD (ai cũng đã ký).
+Việc nhân viên có hành vi vi phạm , công ty không biết và khoản tiền 300.000 đồng thì công ty không thu, không liên quan (nói chung là ko có chứng cứ chứng minh công ty có thu từ khoản 300.000 đồng này),là tiền riêng của khách thỏa thuận với nhân viên.
Xin hỏi Luật sư: Bây giờ sẽ xử lý Công ty A về hành vi cụ thể gì? Căn cứ pháp lý? Xin cám ơn?
Luật sư tư vấn:
Theo quy định tại Điều 25 Nghị định 167/2013/NĐ-CP về hành vi lợi dụng kinh doanh, dịch vụ để hoạt động mua dâm, bán dâm:
“1. Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với người đứng đầu cơ sở kinh doanh dịch vụ do thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra hoạt động mua dâm, bán dâm ở cơ sở do mình quản lý.
2. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng việc mua dâm, bán dâm và các hoạt động tình dục khác làm phương thức kinh doanh.
3. Hình thức xử phạt bổ sung:
Tước quyền sử dụng giấy phép kinh doanh trong thời hạn từ 06 tháng đến 12 tháng đối với hành vi quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này.”
Đồng thời, theo quy định tại Điều 23
“1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với hành vi bán dâm.
2. Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng trong trường hợp bán dâm cho nhiều người cùng một lúc.
3. Người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này, thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất khỏi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
Có thể thấy, do công ty không biết việc nhân viên thực hiện hành vi kích dâm va nhận tiền của khách nên cơ quan có thẩm quyền chỉ được phép xử phạt theo quy định tại khoản 1, Điều 25,