Tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự hiện nay được quy định tại Điều 334 Bộ luật Hình sự 2015. Đây là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng vị trí công tác để vi phạm các quy định liên quan đến đăng ký, gọi nhập ngũ hoặc tập trung huấn luyện. Hành vi này không chỉ xâm phạm đến tính nghiêm minh, công bằng trong quản lý nghĩa vụ quân sự mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến công tác xây dựng lực lượng vũ trang và nhiệm vụ quốc phòng của Nhà nước.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát chung về Tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự:
- 2 2. Cấu thành Tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự:
- 4 4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 334 Bộ luật Hình sự:
- 5 5. Phân biệt với Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự:
1. Khái quát chung về Tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự:
1.1. Tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự là gì?
Trong những năm gần đây, công tác tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ, đăng ký nghĩa vụ quân sự được Nhà nước đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy vẫn tồn tại những vi phạm nghiêm trọng như: Một số cán bộ có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng vị trí của mình để can thiệp trái pháp luật vào quá trình đăng ký, khám tuyển, gọi nhập ngũ hoặc tập trung huấn luyện. Hành vi này dẫn đến tình trạng trốn tránh nghĩa vụ quân sự, tiêu cực trong khâu tuyển quân và bất bình đẳng giữa các công dân, làm giảm niềm tin của nhân dân vào sự công bằng, minh bạch của pháp luật. Đặc biệt trong bối cảnh an ninh quốc phòng có nhiều thách thức như hiện nay thì những hành vi làm trái quy định về nghĩa vụ quân sự này càng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác xây dựng lực lượng vũ trang.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự như sau:
“Tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn, lợi dụng vị trí công tác để vi phạm các quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ hoặc tập trung huấn luyện. Đây là hành vi xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính trong lĩnh vực quân sự; đồng thời ảnh hưởng trực tiếp đến nhiệm vụ quốc phòng và nghĩa vụ thiêng liêng của công dân trong việc bảo vệ Tổ quốc.”
1.2. Ý nghĩa của Tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự trong pháp luật hình sự:
Việc quy định tội danh này trong Bộ luật Hình sự có ý nghĩa quan trọng:
- Thứ nhất: Góp phần bảo đảm tính nghiêm minh, công bằng trong công tác tuyển quân và ngăn chặn tình trạng tiêu cực, gian lận.
- Thứ hai: Khẳng định nghĩa vụ quân sự là nghĩa vụ thiêng liêng và bắt buộc của mọi công dân, không ai có quyền lợi dụng chức vụ, quyền hạn để can thiệp trái pháp luật.
- Thứ ba: Tạo cơ sở pháp lý để xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm; qua đó bảo vệ uy tín, kỷ cương của Nhà nước và củng cố niềm tin của nhân dân vào công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự:
Tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự hiện nay đang được quy định tại Điều 334 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái quy định về đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ, gọi tập trung huấn luyện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội trong thời chiến, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành Tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự:
2.1. Khách thể:
Tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự xâm phạm trực tiếp đến: Trật tự quản lý của Nhà nước đối với việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của công dân.
Điều 4 Luật Nghĩa vụ quân sự 2015 quy định: Nghĩa vụ quân sự là nghĩa vụ vẻ vang của công dân phục vụ trong Quân đội nhân dân. Thực hiện nghĩa vụ quân sự bao gồm phục vụ tại ngũ và phục vụ trong ngạch dự bị của Quân đội nhân dân. Công dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú phải thực hiện nghĩa vụ quân sự theo quy định của Luật Nghĩa vụ quân sự.
2.2. Mặt khách quan:
Mặt khách quan của Tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự thể hiện ở: Hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái với các quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ, gọi tập trung huấn luyện.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái với các quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự gồm:
- Người có chức vụ, quyền hạn có trách nhiệm báo cáo nhưng không báo cáo hoặc báo cáo không đầy đủ, chính xác danh sách công dân trong độ tuổi nghĩa vụ quân sự hoặc số lượng quân nhân dự bị và người sẵn sàng nhập ngũ ở cơ quan, tổ chức mình theo quy định;
- Không bố trí thời gian cho công dân thực hiện đăng ký nghĩa vụ quân sự, thực hiện việc sơ tuyển nghĩa vụ quân sự, khám sức khỏe thực hiện nghĩa vụ quân sự…;
- Làm trái quy định về đăng ký nghĩa vụ quân sự là hành vi không làm, làm không đầy đủ hoặc làm khác với quy định về việc đăng ký nghĩa vụ quân sự;
- Làm trái quy định về gọi tập trung huấn luyện là hành vi không làm, làm không đầy đủ hoặc làm khác việc gọi tập trung huấn luyện theo quy định của pháp luật;
- Làm trái với các quy định của pháp về gọi nhập ngũ, gọi tập trung huấn luyện như không gọi hoặc không phát giấy gọi nhập ngũ, gọi tập trung huấn luyện đối với người phải gọi nhập ngũ, phải gọi tập trung huấn luyện;
- Hoặc các hành vi khách vi phạm quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với tội phạm này. Người phạm tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự chỉ cần có hành vi làm trái là tội phạm đã hoàn thành, không cần hậu quả phải xảy ra (cấu thành hình thức).
2.3. Mặt chủ quan:
Tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự được thực hiện với lỗi cố ý, tức người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi gây ra nhưng vẫn thực hiện tội phạm.
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của tội phạm là người đủ tuổi và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự (đủ 16 tuổi trở lên).
Tội phạm này có dấu hiệu chủ thể đặc biệt. Chủ thể đặc biệt bao gồm những người có chức vụ, quyền hạn trong việc thực hiện đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ, gọi tập trung huấn luyện. Người có chức vụ quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ.
3. Khung hình phạt của Tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự:
Tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự theo Điều 334 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 334 Bộ luật Hình sự:
Tình tiết định khung tăng nặng của Tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự được quy định tại khoản 2 với khung hình phạt là phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Tình tiết “phạm tội trong thời chiến” là tình tiết định khung tăng nặng duy nhất của tội danh này. Trong điều kiện thời chiến, nghĩa vụ quân sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là cơ sở bảo đảm cho việc huy động nguồn lực con người phục vụ công tác quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm trái quy định về đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ hoặc tập trung huấn luyện trong bối cảnh này sẽ trực tiếp gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức mạnh chiến đấu của quân đội, làm suy yếu khả năng phòng thủ quốc gia.
Khoản 2 Điều 334 Bộ luật Hình sự 2015 quy định hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm đối với hành vi làm trái quy định về thực hiện nghĩa vụ quân sự trong thời chiến. Đây là khung hình phạt tăng nặng so với khung cơ bản (tù đến 03 năm) và được đánh giá là phù hợp và cần thiết trong bối cảnh đặc thù.
Trong thời chiến, mọi hành vi cản trở, gian lận hoặc làm trái quy định về nghĩa vụ quân sự đều có thể trực tiếp làm suy yếu sức mạnh chiến đấu của quân đội, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, thậm chí đe dọa đến sự tồn vong của đất nước. Vì vậy việc nâng mức hình phạt lên đến 07 năm tù vừa có tác dụng răn đe nghiêm khắc, vừa thể hiện sự ưu tiên tuyệt đối của pháp luật đối với nhiệm vụ quốc phòng.
Tuy nhiên, so với các tội phạm khác trong lĩnh vực quân sự thì mức hình phạt tối đa 07 năm có thể được xem là chưa thật sự nghiêm khắc trong những tình huống đặc biệt nghiêm trọng, chẳng hạn khi hành vi phạm tội gây hậu quả lớn trong việc làm chậm trễ huy động quân đội. Do đó trong thực tiễn áp dụng, Tòa án có thể cân nhắc kỹ lưỡng hậu quả cụ thể và có thể xem xét áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khác theo Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 để bảo đảm công lý.
5. Phân biệt với Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự:
Tiêu chí | Tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự (Điều 334 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự (Điều 332 Bộ luật Hình sự 2015) |
---|---|---|
Khách thể bị xâm hại | Trật tự quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực quân sự, đặc biệt là sự công bằng, minh bạch trong quản lý nghĩa vụ quân sự. | Trật tự quản lý nghĩa vụ quân sự và nghĩa vụ thiêng liêng của công dân đối với Tổ quốc. |
Chủ thể | Người có chức vụ, quyền hạn trong quản lý, đăng ký, gọi nhập ngũ, tập trung huấn luyện. | Công dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự. Công dân đủ 18 tuổi được gọi nhập ngũ; độ tuổi gọi nhập ngũ từ đủ 18 tuổi đến hết 25 tuổi; công dân được đào tạo trình độ cao đẳng, đại học đã được tạm hoãn gọi nhập ngũ thì độ tuổi gọi nhập ngũ đến hết 27 tuổi (Điều 30 Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015). |
Hành vi phạm tội | Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm trái quy định trong công tác đăng ký nghĩa vụ, gọi nhập ngũ, gọi tập trung huấn luyện. | Không chấp hành quy định về đăng ký nghĩa vụ, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ hoặc tập trung huấn luyện, sau khi đã bị xử phạt hành chính hoặc kết án mà còn vi phạm. |
Điều kiện truy cứu | Chỉ cần có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái quy định. | Phải tái phạm: Trước đó đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Khung 2: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Không quy định hình phạt bổ sung. |
THAM KHẢO THÊM: