Trong bối cảnh các loại dịch bệnh nguy hiểm có thể bùng phát nhanh và gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, việc tuân thủ quy định về phòng chống dịch là trách nhiệm của mọi công dân. Những hành vi cố ý hoặc vô ý làm lây lan dịch bệnh, gây nguy hiểm cho sức khỏe cộng đồng đều sẽ bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật hình sự. Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người hiện nay đang được quy định tại Điều 240 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát chung về Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người:
- 4 4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người:
- 5 5. Phân biệt với Tội lây truyền HIV cho người khác:
- 6 6. Bản án điển hình của Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người:
1. Khái quát chung về Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người:
1.1. Khái niệm:
Trong bối cảnh xã hội hiện đại, khi các loại dịch bệnh truyền nhiễm ngày càng có khả năng lây lan nhanh chóng và gây hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe cộng đồng, việc tuân thủ các quy định về phòng, chống dịch bệnh trở thành nghĩa vụ của mỗi cá nhân và tổ chức. Tuy nhiên vẫn có những trường hợp vì thiếu ý thức, vì lợi ích cá nhân hoặc do hành vi chủ quan, cố ý mà gây ra hậu quả lây lan dịch bệnh, đe dọa an toàn xã hội.
Để bảo vệ sức khỏe cộng đồng và duy trì trật tự y tế, pháp luật hình sự Việt Nam đã quy định Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người tại Điều 240 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người như sau:
“Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người là hành vi của cá nhân vi phạm quy định về phòng chống dịch bệnh, thông qua các hành động như đưa, cho phép đưa động vật, thực vật, sản phẩm mang mầm bệnh ra khỏi vùng dịch hoặc vào lãnh thổ Việt Nam, hoặc thực hiện các hành vi khác làm phát tán, lây lan mầm bệnh nguy hiểm trong cộng đồng, gây ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng con người và trật tự an toàn xã hội.”
1.2. Ý nghĩa của chế định trong pháp luật hình sự:
Việc quy định Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người có ý nghĩa pháp lý, xã hội và nhân đạo sâu sắc, thể hiện rõ trách nhiệm của Nhà nước trong bảo vệ sức khỏe cộng đồng, cụ thể:
- Thứ nhất, quy định về Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người nhằm răn đe, ngăn chặn những hành vi coi thường pháp luật, vi phạm quy định về kiểm dịch, cách ly, vận chuyển, buôn bán hoặc tiếp xúc với các nguồn mang mầm bệnh.
- Thứ hai, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của cá nhân, tổ chức trong việc tuân thủ quy định của cơ quan y tế, chủ động phòng ngừa, phát hiện và báo cáo dịch bệnh.
- Thứ ba, quy định về Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để cơ quan tiến hành tố tụng xử lý hình sự những hành vi gây hậu quả nghiêm trọng đến sức khỏe và tính mạng con người, đặc biệt trong những giai đoạn dịch bệnh phức tạp như COVID-19…
- Thứ tư, Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam, hướng đến việc bảo vệ quyền được sống, quyền được chăm sóc sức khỏe của mọi người dân; đồng thời bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong những tình huống khẩn cấp về y tế.
1.3. Cơ sở pháp lý trong Bộ luật Hình sự 2015:
Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người hiện nay đang được quy định tại Điều 240 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Đưa ra hoặc cho phép đưa ra khỏi vùng có dịch bệnh động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác có khả năng lây truyền dịch bệnh nguy hiểm cho người, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
b) Đưa vào hoặc cho phép đưa vào lãnh thổ Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy hiểm có khả năng lây truyền cho người;
c) Hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Dẫn đến phải công bố dịch thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Bộ trưởng Bộ Y tế;
b) Làm chết người.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 12 năm:
a) Dẫn đến phải công bố dịch thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ;
b) Làm chết 02 người trở lên.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người:
2.1. Khách thể:
Khách thể của tội phạm này là sự an toàn về tính mạng và sức khỏe của con người, của cộng đồng xã hội nói chung. Hành vi làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người tuy không trực tiếp xâm phạm đến thân thể hay gây tổn hại ngay tức khắc cho một cá nhân cụ thể nhưng lại tiềm ẩn nguy cơ gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, có thể đe dọa tính mạng, sức khỏe của nhiều người và sự ổn định của xã hội.
Đối tượng tác động của tội phạm là nguồn mang mầm bệnh (bao gồm động vật, thực vật, sản phẩm từ động vật, thực vật hoặc các vật phẩm khác đã bị nhiễm bệnh…). Đặc điểm của các đối tượng này là có khả năng truyền nhiễm sang con người, trở thành trung gian lây bệnh và gây nguy hiểm cho sức khỏe cộng đồng.
Như vậy, Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người không chỉ xâm hại đến lợi ích cá nhân về sức khỏe, tính mạng mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích công cộng, trật tự an toàn xã hội và công tác phòng chống dịch bệnh của Nhà nước.
2.2. Mặt khách quan:
a. Hành vi:
Hành vi khách quan của Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người bao gồm 03 hành vi:
- Đưa ra hoặc cho phép đưa ra khỏi vùng có dịch bệnh động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác có khả năng lây truyền dịch bệnh nguy hiểm cho người, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
- Đưa vào hoặc cho phép đưa vào lãnh thổ Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy hiểm có khả năng lây truyền cho người;
- Hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người.
Trong đó, cần lưu ý về “Hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người”:
Tính đến thời điểm hiện nay, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vẫn chưa ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể để xác định thế nào là “hành vi khác làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người” theo quy định của Điều 240 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Trong thực tiễn, đặc biệt là thời điểm bùng phát dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (Covid-19) vào đầu năm 2020, nhiều hành vi phát sinh trong đời sống xã hội đã đặt ra những khoảng trống pháp lý – chẳng hạn như hành vi đưa người, cho phép người mắc bệnh hoặc người có nguy cơ nhiễm bệnh (thuộc các nhóm F1, F2, F3, F4…) di chuyển trái phép khỏi vùng cách ly hoặc hành vi tổ chức, tham gia nhập cảnh trái phép vào lãnh thổ Việt Nam dẫn đến nguy cơ hoặc hậu quả lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho cộng đồng.
Tuy nhiên, các hành vi nêu trên chưa được quy định cụ thể trong hướng dẫn áp dụng Điều 240 Bộ luật Hình sự 2015 gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố và xét xử. Do đó, để bảo đảm việc xử lý hình sự thống nhất, đúng người đúng tội và đúng pháp luật, cần thiết phải có văn bản hướng dẫn chi tiết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, làm rõ phạm vi và cách hiểu của cụm từ “hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người”; qua đó tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xử lý các hành vi vi phạm tương tự trong tương lai.
b. Hậu quả:
Hậu quả không phải dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người.
Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người được coi là hoàn thành kể từ thời điểm hành vi khách quan xảy ra (cấu thành hình thức).
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người chỉ có thể là cá nhân. Tức là người có năng lực hành vi và năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. Người phạm tội có thể là công dân Việt Nam, người nước ngoài hoặc người không quốc tịch, miễn là họ có hành vi vi phạm đủ yếu tố cấu thành tội phạm được quy định tại Điều 240 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Đối với hành vi “cho phép” được nêu tại mặt khách quan của tội phạm, chủ thể thực hiện hành vi này phải là người có chức vụ, quyền hạn trong việc cấp phép hoặc cho phép hoạt động có liên quan đến dịch bệnh. Chỉ những người được giao quyền quản lý, phê duyệt hoặc có thẩm quyền hành chính hợp pháp mới có khả năng thực hiện hành vi “cho phép” nói trên; việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để cho phép trái quy định có thể làm phát sinh trách nhiệm hình sự về tội danh này.
Bên cạnh đó, người phạm tội phải từ đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Như vậy, chủ thể của tội phạm làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người vừa có thể là bất kỳ cá nhân nào có năng lực pháp luật hình sự vừa có thể là người có chức vụ, quyền hạn trong một số trường hợp đặc thù, tùy thuộc vào hành vi cụ thể trong từng vụ án.
2.4. Mặt chủ quan:
Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người được thực hiện với lỗi cố ý, tức là nhận thức được hành vi của mình là làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người nhưng vì những động cơ khác nhau mà vẫn thực hiện hành vi mà pháp luật cấm.
3. Khung hình phạt của Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người:
Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người theo Điều 240 Bộ luật Hình sự 2015 gồm những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 10 năm đến 12 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 240 Bộ luật Hình sự năm 2015 với mức hình phạt cao nhất là 12 năm tù:
4.1. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 240:
- Dẫn đến phải công bố dịch thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Bộ trưởng Bộ Y tế:
Đây là tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm a khoản 2 Điều 240 Bộ luật Hình sự 2015. Việc công bố dịch là thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Bộ trưởng Bộ Y tế (tùy theo phạm vi, mức độ và quy mô lây lan của dịch bệnh). Khi hành vi của người phạm tội làm cho tình hình dịch bệnh phát triển đến mức phải công bố dịch, tức là gây hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe cộng đồng và trật tự xã hội, thể hiện mức độ nguy hiểm cao hơn so với cấu thành cơ bản. Trong trường hợp này, người phạm tội bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm, từ đó thể hiện chính sách hình sự nghiêm khắc nhằm răn đe các hành vi vi phạm quy định về phòng, chống dịch.
- Làm chết người:
Theo điểm b khoản 2 Điều 240 Bộ luật Hình sự 2015, nếu hành vi làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người dẫn đến hậu quả làm chết một người thì đây là tình tiết định khung tăng nặng thứ hai, phản ánh hậu quả đặc biệt nghiêm trọng về tính mạng con người. Trong trường hợp này, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả chết người phải được chứng minh rõ ràng, tức là hành vi vi phạm của người phạm tội là nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp gây nên cái chết do lây nhiễm bệnh. Mức hình phạt từ 05 năm đến 10 năm tù thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ tối đa quyền được sống và an toàn sức khỏe của công dân.
4.2. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 240:
- Dẫn đến phải công bố dịch thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ:
Theo điểm a khoản 3 Điều 240 Bộ luật Hình sự 2015, khi hành vi phạm tội gây ra hậu quả nghiêm trọng đến mức dịch bệnh bùng phát rộng, vượt quá phạm vi một hoặc nhiều tỉnh, buộc Thủ tướng Chính phủ phải công bố dịch theo quy định của pháp luật thì đây được coi là mức độ đặc biệt nghiêm trọng. Hậu quả này thể hiện mức độ nguy hiểm cao, gây ảnh hưởng lớn đến kinh tế, xã hội, đời sống dân sinh và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Vì vậy, người phạm tội trong trường hợp này bị phạt tù từ 10 năm đến 12 năm – đây cũng là khung hình phạt cao nhất của tội danh này.
- Làm chết 02 người trở lên:
Tình tiết này được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 240 Bộ luật Hình sự 2015. Đây là tình tiết định khung tăng nặng đặc biệt, thể hiện hậu quả cực kỳ nghiêm trọng về mặt sinh mạng con người. Khi hành vi làm lây lan dịch bệnh của người phạm tội dẫn đến nhiều người tử vong, điều đó chứng tỏ hậu quả xã hội mà tội phạm gây ra đã vượt xa mức độ thông thường, tác động mạnh đến trật tự an toàn xã hội và niềm tin của cộng đồng. Với hậu quả làm chết từ 02 người trở lên thì người phạm tội bị phạt tù từ 10 năm đến 12 năm, thể hiện chính sách hình sự nghiêm khắc của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền sống, quyền được an toàn sức khỏe của công dân và duy trì trật tự y tế công cộng.
5. Phân biệt với Tội lây truyền HIV cho người khác:
Tiêu chí | Tội lây truyền HIV cho người khác (Điều 148 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người (Điều 240 Bộ luật Hình sự 2015) |
Khách thể bị xâm hại | Xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người thông qua hành vi cố ý lây truyền virus HIV – một bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm, không có thuốc điều trị triệt để. | Xâm phạm an toàn tính mạng, sức khỏe cộng đồng và trật tự an toàn xã hội thông qua hành vi làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nói chung. |
Mặt khách quan của tội phạm | Hành vi cố ý lây truyền HIV cho người khác, dù bằng bất kỳ hình thức nào (quan hệ tình dục, tiêm chích, truyền máu, dùng chung kim tiêm, v.v.). Hành vi phải do người biết mình nhiễm HIV thực hiện. | Hành vi đưa ra, cho phép đưa ra khỏi vùng dịch, đưa vào, cho phép đưa vào lãnh thổ Việt Nam động, thực vật, sản phẩm, vật phẩm mang mầm bệnh; hoặc hành vi khác làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người. |
Chủ thể của tội phạm | Là cá nhân biết rõ mình nhiễm HIV và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự (từ đủ 16 tuổi trở lên). | Là cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự, từ đủ 16 tuổi trở lên. Có thể là người có hoặc không có chức vụ, quyền hạn; trong trường hợp “cho phép” thì chủ thể phải có thẩm quyền. |
Đối tượng tác động | Là người khác. Nạn nhân bị lây nhiễm HIV. Không áp dụng đối với trường hợp nạn nhân đã biết tình trạng nhiễm HIV của người phạm tội và tự nguyện quan hệ tình dục. | Là động vật, thực vật, sản phẩm động, thực vật hoặc vật phẩm bị nhiễm bệnh, mang mầm bệnh có khả năng lây truyền sang người; hoặc con người, môi trường, phương tiện mang mầm bệnh trong các hành vi khác. |
Hình phạt | Khung 1: Phạt tù từ 01 năm đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. Không quy định hình phạt bổ sung. | Khung 1: Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Khung 3: Phạt tù từ 10 năm đến 12 năm. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
6. Bản án điển hình của Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người:
- Tên bản án:
Bản án về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người số 14/2022/HS-ST của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận ngày 13 tháng 01 năm 2022.
- Nội dung vụ án:
Bị cáo Nguyễn Văn Đ trở về từ vùng có dịch bệnh Covid-19 nhưng bị cáo không chấp hành các biện pháp phòng chống dịch bệnh theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền gây ra hậu quả làm lây lan dịch bệnh Covid-19 cho bà Mai Thị N (mẹ ruột của bị cáo). Do đó, bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 240 Bộ luật Hình sự năm 2015 mà bị cáo gây ra.
Bị cáo khẳng định những lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra là hoàn toàn tự nguyện, đúng sự thật, bị cáo không bị bức cung và cáo trạng truy tố là đúng, không oan cho bị cáo. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người liên quan, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Hoàn toàn đủ cơ sở kết luận đây là vụ án “Làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người” xảy ra từ ngày ngày 24/7/2021 đến ngày 27/7/2021 tại khu phố 3, thị trấn P, huyện T do Nguyễn Văn Đ trở về từ thị xã L là vùng có dịch bệnh Covid-19 nhưng Đ không đi khai báo y tế ngay, khi được được thông báo cách ly thì bị cáo lại có hành vi trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly đã gây ra hậu quả làm lây lan dịch bệnh Covid-19 cho bà Mai Thị N (mẹ ruột của Đ).
- Quyết định của Tòa án:
+ Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 240 Bộ luật hình sự năm 2015.
+ Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Đ 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 (hai mươi bốn ) tháng kể từ ngày tuyên án.
THAM KHẢO THÊM:

Tư vấn pháp luật qua Zalo


