Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là gì? Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tiếng Anh là gì? Quy định của Bộ luật hình sự về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản? Cấu thành tội phạm của Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản? Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản?
Lòng tin có thể nói là một trong những thứ quý giá nhất trong cuộc sống. Mọi người thường nói mất lòng tin là mất hết tất cả. Trong quan hệ tài sản cũng vậy, trường hợp một người dựa vào long tin của người khác để chiếm đoạt tài sản của họ thì sẽ bị xử lý hình sự. Bài viết này tìm hiểu về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự.
Cơ sở pháp lý
–
1. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là gì?
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Bộ luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác bằng thủ đoạn lạm dụng lòng tin của người khác để chiếm đoạt tài sản.
2. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tiếng Anh là gì?
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong tiếng Anh là “Abuse of trust to appropriate property”.
3. Quy định của Bộ luật hình sự về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 BLHS như sau:
“Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có Điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.
4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”.
4. Cấu thành tội phạm của Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
4.1. Khách thể của tội phạm
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xâm phạm quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân.
4.2. Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan
Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tức là người phạm tội có được tài sản do người quản lý tài sản giao cho bằng các hình thức hợp pháp sau đó đã lạm dụng lòng tin chiếm đoạt luôn tài sản đó. Điều này được thể hiện qua các dạng hành vi sau:
– Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản đó.
Đây là trường hợp người phạm tội nhận được tài sản của người khác bằng một hợp đồng (hợp đồng vay, hợp đồng mượn, hợp đồng thuê tài sản hoặc một hình thức hợp đông khác). Sau khi nhận được sàn người phạm tội đã chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ tài sản đó bằng thủ đoạn gian dối. Ví dụ: Hành vi lừa dối là chưa nhận được tài sản hoặc nhận được tài sản ít hơn so với tài sản đã nhận.
– Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó.
Đây là trường hợp người phạm tội nhận được tài sản của người khác bằng một hợp đồng (hợp đồng vay, hợp đồng mượn, hợp đồng thuê tài sản hoặc một hình thức hợp đồng khác). Sau khi nhận được tài sản, trong quá trình thực hiện hợp đồng hoặc đến thời hạn phải trả lại tài sản người phạm tội đã bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài tài đó. Trường hợp một người trong quá trình thực hiện hợp đồng bị phá sản hoặc sản, trong quá trình thực làm ăn thua lỗ, chưa có Điều kiện trả nợ, bị các chủ nợ đên đe dọa gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe nên phải tạm thời trốn đi, sau đó đã báo với cơ quan có thẩm quyền can thiệp thì không cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. phải trả
– Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng, đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có Điều kiện, khả năng để trả nhưng cố tình không trả.
Đây là trường hợp người phạm tội nhận được tài sản của người khác bằng một hợp đồng (hợp đồng vay, hợp đông mượn, hợp đông thuê tài sản hoặc một hình thức hợp đông khác). Sau khi nhận được tài sản, đến thời hạn trả lại tài sản, người phạm tội đã cố tình trì hoãn, đưa ra những lý do không chính đáng để không trả lại tài sản cho người giao tài sản mặc dù có đủ Điều kiện, khả năng để trả tài sản (có số dư trong tài khoản tại ngân hàng, có tài sản có thể bán để lấy tiên trả lại…) và đã có yêu cầu đòi tài sản của người đó.
– Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản
Đây là trường hợp người phạm tội nhận được tài sản của người khác bằng một hợp đồng (hợp đồng vay, hợp đồng mượn, hợp đồng thuê tài sản hoặc một hình thức hợp đồng khác). Sau khi nhận được tài sản người phạm tội đã sử dụng tài sản đó vào một mục đích bất hợp pháp (ví dụ: Dùng tiền vay mượn để đi buôn lậu, đánh bạc, làm hàng giả…) dẫn đến mất tài sản, không có khả năng trả lại tài sản cho người đã giao tài sản.
Tuy nhiên, trong trường hợp người phạm tội nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi sử dụng tài sản đó hợp pháp (ví dụ Sau khi nhận tài sản của chủ sở hữu đã đưa tài sản vào kinh doanh…) nhưng thua lỗ, dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản thì hành vi đó không cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Hậu quả
Hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người khác cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
– Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá 4.000.000 đồng trở lên
– Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản
– Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá dưới 4.000.000 đồng nhưng “đã bị kết án về tội này hoặc thuộc về một trong các tội quy định tại các Điều 168,169, 170, 171, 172, 173 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá dưới 4.000.000 đồng nhưng tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình của họ.
4.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó và mong muốn chiếm đoạt được tài sản.
4.4. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là người đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực TNHS.
5. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khác nhau ở một số nội dung sau:
Thứ nhất, về thời điểm người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản:
– Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, sau khi có giao dịch hợp pháp của hai bên, người phạm tội mới có ý định chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối. Hay nói cách khác sau khi có được tài sản người phạm tội mới có ý định chiếm đoạt tài sản. Thủ đoạn gian dối được thể hiện ở việc che đậy hành vi của người phạm tội nhằm không trả lại tài sản hoặc trị giá tài sản đúng nghĩa vụ của hợp đồng được giao kết trước đó. Người phạm tội có thể nói dối bị mất, bị đánh tráo hoặc rút bớt tài sản…
– Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ý định chiếm đoạt tài sản có trước thủ đoạn gian dối. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi lừa đảo thể hiện ở việc đưa ra thông tin không đúng sự thật với nhiều cách thức khác nhau làm người này tin tưởng là thật và giao tài sản, việc giao tài sản cho người có thủ đoạn gian dối hoàn toàn xuất phát từ sự tự nguyện của người bị lừa dối. Hành vi dùng thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao giờ cũng có trước hoặc đi liền với hành vi nhận tài sản từ người khác và được coi là Điều kiện để thực hiện việc chiếm đoạt. Thủ đoạn gian dối của người phạm tội là nguyên nhân trực tiếp của việc chuyển dịch tài sản từ người quản lý sang người phạm tội.
Thứ hai, về thời điểm hoàn thành tội phạm:
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đều hoàn thành khi chiếm đoạt được tài sản.
Hai tội danh này khác nhau ở thời điểm có ý thức chiếm đoạt tài sản, người phạm tội lừa đảo có ý thức chiếm đoạt ngay từ ban đầu và để đạt được mục đích chiếm đoạt đó, họ thực hiện các hành vi gian dối để nhận được tài sản rồi chiếm đoạt. Vì vậy, ngay sau khi họ nhận được tài sản cũng là thời điểm họ chiếm đoạt tài sản, là thời điểm tội phạm hoàn thành.
Còn tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, người phạm tội có hành vi chiếm đoạt sau khi họ đã có tài sản của chủ tài sản trong tay một cách ngay tình. Sau đó nếu họ có các hành vi như dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn… để không trả lại tài sản thì mới cấu thành tội phạm này. Do đó, thời điểm hoàn thành của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là thời điểm người phạm tội vi phạm những cam kết đã thỏa thuận, cố tình không trả, chiếm đoạt tài sản của người khác.
Thứ ba, về trị giá tài sản bị chiếm đoạt:
Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, trị giá tài sản từ 4.000.000 trở lên đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định ở BLHS thì mới phạm tội.
Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, do tính nguy hiểm cao hơn nên trị giá tài sản bị chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp theo quy định thì phạm tội.