Trong tố tụng hình sự, việc truy cứu kịp thời người phạm tội là yêu cầu cốt lõi của thượng tôn pháp luật. Khi người có thẩm quyền biết rõ có tội nhưng cố ý không truy cứu, hành vi ấy làm bỏ lọt tội phạm, xâm hại quyền lợi nạn nhân và bào mòn niềm tin vào công lý. Điều 369 Bộ luật Hình sự 2015 quy định Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội để xử lý nghiêm minh hành vi này.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội:
- 2 2. Cấu thành Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội:
- 3 3. Khung hình phạt đối với Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội:
- 4 4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 369 Bộ luật Hình sự:
- 5 5. Phân biệt với Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội:
1. Khái quát về Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội:
1.1. Khái niệm:
Trong thực tiễn, mặc dù số vụ bị xử lý theo Điều 369 Bộ luật Hình sự 2015 không nhiều so với các tội danh khác nhưng mỗi trường hợp đều để lại hệ quả lớn. Hành vi thường xuất hiện dưới nhiều biểu hiện như:
- Không khởi tố dù có căn cứ;
- Đình chỉ sai quy định pháp luật;
- Cố tình kéo dài thời gian xử lý;
Hệ quả của hành vi này là gây rối loạn trật tự, bất bình đẳng trước pháp luật và nguy cơ tái phạm ở những người đáng lẽ phải bị xử lý hình sự.
“Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội là hành vi của người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng/thi hành pháp luật cố ý không truy cứu đối với người mà mình biết rõ là có tội. Bản chất pháp lý của tội danh này là sự tha hóa quyền lực công, làm sai lệch mục tiêu của tố tụng hình sự là phát hiện, xử lý công minh người phạm tội và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Điểm cốt lõi là “biết rõ” nhưng vẫn không truy cứu, qua đó biến công cụ pháp luật thành lá chắn cho tội phạm.”
1.2. Ý nghĩa:
Việc hình sự hóa hành vi này có ý nghĩa:
- Thứ nhất, bảo vệ thượng tôn pháp luật và công lý: bảo đảm mọi tội phạm đều bị phát hiện và xử lý; ngăn chặn việc “bẻ cong” pháp luật.
- Thứ hai, giữ vững kỷ luật kỷ cương công vụ: răn đe mạnh mẽ người có thẩm quyền, củng cố trách nhiệm cá nhân và tính liêm chính trong hoạt động tố tụng.
- Thứ ba, bảo vệ quyền con người: giảm nguy cơ trả thù nạn nhân, người tố giác, nhân chứng và bảo đảm môi trường tố tụng an toàn, công bằng.
- Thứ tư, củng cố niềm tin xã hội: khẳng định không có “vùng cấm” trước pháp luật, qua đó tăng tính răn đe phòng ngừa và hiệu lực quản trị nhà nước.
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội hiện nay đang được quy định tại Điều 369 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào có thẩm quyền mà không truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là có tội, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Không truy cứu trách nhiệm hình sự người thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng;
b) Đối với 02 người đến 05 người;
c) Người không bị truy cứu trách nhiệm hình sự bỏ trốn hoặc thực hiện hành vi cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng;
d) Dẫn đến việc người không bị truy cứu trách nhiệm hình sự trả thù người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị hại, nhân chứng;
đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Đối với 06 người trở lên;
b) Không truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
c) Người không bị truy cứu trách nhiệm hình sự tiếp tục thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
d) Làm người bị hại tự sát.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội:
2.1. Khách thể:
Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội xâm phạm trực tiếp đến: Hoạt động đúng đắn của điều tra, truy tố và có ảnh hưởng xấu đến hiệu quả của đấu tranh chống và phòng tội phạm nói chung.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi khách quan của tội phạm được quy định là hành vi không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội.
Không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội là hành vi:
- Không khởi tố bị can đôi với người có tội;
- Hành vi không phê chuẩn khởi tố bị can đối với người có tội;
- Hành vi không đề nghị truy tố bị can đối với người có tội;
- Hoặc hành vi không truy tổ bị can đổi với người có tội.
Người có tội là người có hành vi thỏa mãn cấu thành tội phạm cụ thể trong bộ luật hình sự và hành vi đó còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự cũng như không có cơ sở pháp lí để miễn trách nhiệm hình sự cho chủ thể thực hiện.
2.3. Mặt chủ quan:
Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết rõ người mình không truy cứu trách nhiệm hình sự là người có tội và có đủ cơ sở pháp lí để truy cứu trách nhiệm hình sự họ. Trường hợp không biết rõ người mình không truy cứu trách nhiệm hình sự là người có tội không thuộc trường hợp phạm tội này.
Trong thực tế, động cơ của người phạm tội có thể khác nhau (có thể do thù tức, do tư lợi, do bị ép buộc…). Nhưng động cơ không được quy định là dâu hiệu định tội. Tính chất của động cơ có thể được xem xét đến khi quyết định hình phạt.
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của tội này được quy định là chủ thế đặc biệt. Cụ thể Điều 179 và Điều 232 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định:
- Khi có đủ căn cứ để xác định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can. Trường hợp phát hiện có người đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm chưa bị khởi tố thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can hoặc trực tiếp ra quyết định khởi tố bị can nếu đã yêu cầu nhưng Cơ quan điều tra không thực hiện. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải gửi cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.
- Việc điều tra kết thúc khi Cơ quan điều tra ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra. Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra bản kết luận điều tra, Cơ quan điều tra phải giao bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra kèm theo quyết định đình chỉ điều tra cùng hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp; giao bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho bị can hoặc người đại diện của bị can; gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho người bào chữa; thông báo cho bị hại, đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Như vậy chủ thể của tội này có thể là Thủ trưởng cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát…
3. Khung hình phạt đối với Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội:
- Khung 1: Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Như vậy, mức hình phạt cao nhất mà người phạm tội không truy cứu trách nhiệm hình sự với người có tội có thể bị áp dụng là 12 năm tù.
Nhận xét:
Trước đây tại điều 294 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định về tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội như sau:
“1. Người nào có thẩm quyền mà không truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là có tội, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Không truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng;
b) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.”
Điều 369 Bộ luật Hình sự năm 2015 không có sự thay đổi trong mức hình phạt. Điểm tiến bộ nhất trong điều 369 là không còn quy định về tình tiết tăng nặng “gây hậu quả nghiêm trong”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” mà thay vào đó là các hậu quả thực tế và cụ thể, đáp ứng được yêu cầu trong cải cách tư pháp cũng như đáp ứng được yêu cầu trong việc áp dụng pháp luật.
Trong tương quan giữa Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội và tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội có nhiều điểm tương đồng trong khách thể, chủ thể thực hiện tội phạm, một số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Việc xảy ra hai loại tội phạm này trong xã hội cho thấy nhiều sai sót, lỗ hỏng trong hệ thống tư pháp, dẫn đến sự mất niềm tin của người dân vào hệ thống cơ quan bảo vệ quyền lợi của nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của người dân.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 369 Bộ luật Hình sự:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 369 Bộ luật Hình sự 2015:
4.1. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 369:
- Không truy cứu trách nhiệm hình sự người thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng: Việc cố ý “bỏ lọt” người thực hiện tội rất nghiêm trọng làm gia tăng đáng kể mức nguy hiểm cho xã hội vì đó là nhóm tội có khung hình phạt cao và khả năng gây ra hậu quả lớn. Vì thế đây là một trong những tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội.
- Đối với 02 người đến 05 người: Không truy cứu đối với nhiều người cho thấy tính hệ thống và phạm vi vi phạm rộng, gây hậu quả kép. Mức độ nguy hiểm của hành vi trong trường hợp này cao hơn so với các trường hợp đơn lẻ khác. Vì vậy cần xử lý theo khung hình phạt nặng hơn tại khoản 2 Điều 369.
- Người không bị truy cứu trách nhiệm hình sự bỏ trốn hoặc thực hiện hành vi cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng: Trong trường hợp này, hậu quả phát sinh trực tiếp từ hành vi của người có thẩm quyền nên cần xử lý nặng để bảo vệ tính liêm chính của tố tụng.
- Dẫn đến việc người không bị truy cứu trách nhiệm hình sự trả thù người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị hại, nhân chứng: Tình tiết này cho thấy hệ quả đe dọa quyền con người và làm ảnh hưởng đến cơ chế tố giác tội phạm. Việc không truy cứu tạo điều kiện cho đối tượng trả thù, làm nạn nhân và nhân chứng khiếp sợ; từ đó cản trở nghiêm trọng công lý trong hiện tại và tương lai.
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội: Khi quyết định không truy cứu làm bùng phát bất ổn xã hội, gây phẫn nộ trong dư luận và gia tăng tội phạm hoặc mất niềm tin vào cơ quan tố tụng, mức độ nguy hiểm vượt khỏi phạm vi một vụ việc. Pháp luật coi đây là hậu quả xã hội rộng nên cần áp khung nặng để lập lại trật tự và niềm tin công chúng.
4.2. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 369:
- Đối với 06 người trở lên: Quy mô không truy cứu ở mức tối thiểu sáu người phản ánh sự bao che có hệ thống và làm tê liệt chức năng răn đe của pháp luật trong một phạm vi đáng kể. Mức độ ảnh hưởng tới trật tự pháp lý và niềm tin xã hội là rất lớn nên bị xử lý ở khung hình phạt cao nhất của Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội.
- Không truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: Đây là nhóm tội nguy hiểm bậc cao, đe dọa nền tảng chính trị, chủ quyền, tính mạng, tài sản ở quy mô lớn. Hành vi không truy cứu trong các trường hợp này xâm hại trực tiếp lợi ích tối thượng của Nhà nước và xã hội, do đó cần bị áp dụng khung hình phạt nghiêm khắc nhất của tội danh này.
- Người không bị truy cứu trách nhiệm hình sự tiếp tục thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: Hậu quả này cho thấy sai phạm của người có thẩm quyền là “nguyên nhân thuận lợi” cho tội phạm nguy hiểm hơn xảy ra. Đây là tình tiết thể hiện mức độ lỗi cao và hậu quả đặc biệt, đòi hỏi chế tài mạnh để phòng ngừa chung.
- Làm người bị hại tự sát: Đây là hậu quả nghiêm trọng nhất nhất và xâm phạm trực tiếp đến quyền sống của con người – giá trị pháp lý cao nhất. Mối liên hệ nhân quả giữa việc không truy cứu và việc người bị hại tự sát thể hiện trách nhiệm pháp lý – đạo đức rất nặng của người phạm tội. Do đó cần bị xử lý ở khung cao nhất của Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội.
5. Phân biệt với Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội:
Tiêu chí | Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội (Điều 368 Bộ luật Hình sự năm 2015) | Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội (Điều 369 Bộ luật Hình sự năm 2015) |
Khách thể | Khách thể của tội phạm là danh dự của người bị oan và uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng. | Khách thể của tội phạm là uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng; bỏ lọt tội phạm và các lợi ích của Nhà nước, xã hội và của công dân. |
Mặt khách quan | Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi của có thẩm quyền mà truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là không có tội. Người phạm tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, có thể thực hiện một trong các hành vi sau:
| Hành vi thuốc mặt chủ quan của tội phạm là hành vi không truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là có tội. Hay nói cách khác, sự không thực hiện (bỏ lọt) được thể hiện thông qua hành vi không khởi tố/không truy cứu người biết rõ là có tội. |
Chủ thể và mặt chủ quan | Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có thẩm quyền trong việc khởi tố bị can, kết luận điều tra, truy tố, mới là chủ thể của tội phạm này. Những người có thẩm quyền trong việc khởi tố bị can, kết luận điều tra, truy tố, bao gồm:
Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên. Và được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. | |
Hình phạt | Điều 368 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau: Khung 1: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Khung 3: Phạt tù từ 10 năm đến 15 năm. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Điều 369 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau: Khung 1: Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 12 năm. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
THAM KHẢO THÊM: