Tội không thi hành án được quy định tại Điều 379 Bộ luật Hình sự năm 2015. Đây là hành vi cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc không thi hành quyết định thi hành bản án, quyết định của Tòa án, do người có thẩm quyền thực hiện, gây ảnh hưởng đến hiệu lực của bản án và hoạt động tư pháp. Hành vi này xâm phạm trật tự quản lý tư pháp, làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật và quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án.
Mục lục bài viết
1. Khái quát chung về Tội không thi hành án:
1.1. Khái niệm:
Trong những năm gần đây, công tác thi hành án (đặc biệt là thi hành án dân sự và hình sự) vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn và tồn tại. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là tình trạng cố tình chây ì, né tránh, không chấp hành bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Tình trạng bản án tuyên không được thi hành, án tồn đọng kéo dài không chỉ gây bức xúc trong dư luận xã hội mà còn làm giảm niềm tin của nhân dân vào tính nghiêm minh của pháp luật, ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu lực, hiệu quả của công tác tư pháp và uy tín của cơ quan Nhà nước. Do đó, việc xử lý nghiêm các hành vi không thi hành án là yêu cầu khách quan, cần thiết để bảo đảm pháp luật được tôn trọng và thực thi nghiêm chỉnh.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội không thi hành án như sau:
“Tội không thi hành án là hành vi cố ý không thực hiện hoặc cản trở việc thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án mặc dù người đó có nghĩa vụ hoặc có thẩm quyền tổ chức thi hành án theo quy định của pháp luật.”
1.2. Ý nghĩa:
Việc quy định Tội không thi hành án trong Bộ luật Hình sự năm 2015 có ý nghĩa chính trị, pháp lý và xã hội sâu sắc; thể hiện nguyên tắc thượng tôn pháp luật và bảo đảm tính cưỡng chế của bản án, quyết định của Tòa án.
- Thứ nhất, quy định về Tội không thi hành án nhằm bảo vệ uy tín và hiệu lực của hoạt động tư pháp, bảo đảm rằng mọi bản án, quyết định của Tòa án sau khi có hiệu lực đều phải được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh. Đây là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Thứ hai, việc xử lý hành vi không thi hành án góp phần duy trì kỷ cương, trật tự pháp luật và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức được hưởng án. Mỗi bản án không được thi hành là một sự phủ nhận công lý, do đó pháp luật hình sự cần can thiệp để bảo đảm tính răn đe và cưỡng chế thực tế.
- Thứ ba, tội không thi hành án còn có ý nghĩa phòng ngừa và giáo dục sâu sắc, giúp nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân, doanh nghiệp và đội ngũ cán bộ thi hành án. Việc xử lý nghiêm minh các trường hợp cố tình không thi hành án sẽ góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào pháp luật và cơ quan tư pháp.
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội không thi hành án hiện nay đang được quy định tại Điều 379 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào có thẩm quyền mà cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc không thi hành quyết định thi hành bản án, quyết định của Tòa án thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;
b) Dẫn đến người bị kết án, người phải chấp hành án bỏ trốn;
c) Dẫn đến hết thời hiệu thi hành án;
d) Dẫn đến người bị kết án, người phải chấp hành án, người có nghĩa vụ thi hành án tẩu tán tài sản và không thi hành được nghĩa vụ thi hành án với số tiền từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Dẫn đến người bị kết án, người phải chấp hành án tiếp tục thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng;
c) Dẫn đến người bị kết án, người phải thi hành án, người có nghĩa vụ thi hành án tẩu tán tài sản và không thi hành được nghĩa vụ thi hành án với số tiền từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Dẫn đến người bị kết án, người phải chấp hành án tiếp tục thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Dẫn đến người bị kết án, người phải thi hành án, người có nghĩa vụ thi hành án tẩu tán tài sản và không thi hành được nghĩa vụ thi hành án với số tiền 1.000.000.000 đồng trở lên.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội không thi hành án:
2.1. Khách thể:
Không thi hành án là hành vi cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc không tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù người đó có thẩm quyền và trách nhiệm thực hiện việc này theo quy định. Đây là biểu hiện của sự thiếu ý thức tuân thủ pháp luật và kỷ luật công vụ, làm ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực của hoạt động tư pháp và quyền được bảo đảm thi hành án của tổ chức, cá nhân.
Tội không thi hành án là tội phạm xâm phạm trực tiếp đến hoạt động tư pháp, đồng thời xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và người được thi hành án. Hành vi này không chỉ làm đình trệ quá trình thực thi công lý mà còn làm giảm hiệu quả cưỡng chế và uy tín của hệ thống tư pháp Nhà nước.
Đối tượng tác động của tội phạm này là các bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, cũng như các quyết định thi hành bản án, quyết định của Tòa án do cơ quan, người có thẩm quyền ban hành. Đây là những văn bản tố tụng thể hiện ý chí quyền lực Nhà nước trong việc giải quyết dứt điểm một vụ án hoặc vụ việc cụ thể mang tính bắt buộc thi hành đối với các chủ thể có liên quan. Trong đó:
- Bản án của Tòa án: Là văn bản tố tụng do Thẩm phán và Hội thẩm nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành, nhằm ghi nhận kết quả xét xử và quyết định cuối cùng về quyền, nghĩa vụ pháp lý của các bên đương sự.
- Quyết định của Tòa án: Là văn bản tố tụng có thể do Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán độc lập ban hành (như quyết định hòa giải thành, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định kê biên tài sản, quyết định thi hành án phạt tù, hoặc quyết định bắt buộc chữa bệnh…). Tất cả đều có giá trị pháp lý bắt buộc và phải được thi hành nghiêm túc, đầy đủ, đúng thời hạn.
Như vậy, khách thể của Tội không thi hành án là hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp trong việc bảo đảm bản án, quyết định của Tòa án được thực thi trên thực tế; đồng thời là quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân được thi hành án. Việc không thi hành án không chỉ làm ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật mà còn làm suy giảm niềm tin của xã hội vào công lý và Nhà nước pháp quyền.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm này được thể hiện ở việc cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc không thi hành quyết định thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, mặc dù người thực hiện hành vi có thẩm quyền và trách nhiệm thực hiện.
- Không ra quyết định thi hành án: Là hành vi của người có thẩm quyền ra quyết định thi hành án nhưng cố ý không ban hành quyết định, làm cho bản án hoặc quyết định của Tòa án không được đưa vào giai đoạn thi hành, gây ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực của bản án.
- Không thi hành quyết định thi hành án: Là hành vi của người có thẩm quyền tổ chức thi hành án nhưng cố tình không thực hiện, không triển khai hoặc trì hoãn việc thi hành án dẫn đến bản án hoặc quyết định của Tòa án không được thực hiện trên thực tế.
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp người có thẩm quyền không ra quyết định thi hành án hoặc không thi hành bản án, quyết định của Tòa án đều bị coi là tội phạm. Hành vi chỉ cấu thành tội khi thỏa mãn một trong các điều kiện sau đây:
- Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;
- Dẫn đến người bị kết án, người phải chấp hành án bỏ trốn;
- Dẫn đến hết thời hiệu thi hành án;
- Dẫn đến người bị kết án, người phải chấp hành án, người có nghĩa vụ thi hành án tẩu tán tài sản và không thi hành được nghĩa vụ thi hành án với số tiền từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng.
Như vậy, tội phạm được coi là hoàn thành khi người có thẩm quyền thực hiện hành vi thuộc mặt khách quan nêu trên và có hậu quả xảy ra. Hành vi này thể hiện sự vi phạm nghiêm trọng kỷ luật công vụ, làm suy giảm tính nghiêm minh của pháp luật và cản trở hoạt động tư pháp; do đó bị xử lý hình sự để bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định tư pháp và quyền lợi chính đáng của người được thi hành án.
2.3. Mặt chủ quan:
Tội không chấp hành án được thực hiện với cố ý.
Động cơ tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này, dù người phạm tội với động cơ nào đi nữa thì hành vi cố ý không hành án đều đã cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, đối với tội phạm này, động cơ của người phạm tội chủ yếu là vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác.
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của tội phạm này cũng là chủ thể đặc biệt. Chỉ có những người có thẩm quyền trong việc ra quyết định thi hành án hoặc trong việc thi hành quyết định thi hành án mới có thể là chủ thể của tội phạm này.
Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên theo Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015.
3. Khung hình phạt của Tội không thi hành án:
Tội không thi hành án theo Điều 379 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung tăng nặng của Tội không thi hành án:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội không thi hành án được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 379 Bộ luật Hình sự 2015:
4.1. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 379:
- Phạm tội 02 lần trở lên: Đây là tình tiết định khung thể hiện tính chất tái phạm trong hành vi phạm tội, cho thấy người phạm tội có thái độ coi thường pháp luật, cố ý vi phạm nhiều lần dù đã có kinh nghiệm hoặc bị nhắc nhở, xử lý. Phạm tội 02 lần trở lên có thể hiểu là người có thẩm quyền cố ý không thi hành bản án hoặc quyết định của Tòa án từ hai lần trở lên, mỗi lần độc lập nhau và đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Hành vi này thể hiện sự xem thường kỷ luật hành chính và trách nhiệm công vụ, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của cơ quan Nhà nước, niềm tin của nhân dân vào pháp luật và hoạt động tư pháp.
- Dẫn đến người bị kết án, người phải chấp hành án tiếp tục thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng: Tình tiết này phản ánh mức độ hậu quả xã hội tăng cao do hành vi không thi hành án gây ra. Khi người có thẩm quyền không ra quyết định thi hành án hoặc không tổ chức thi hành án đúng thời hạn thì người bị kết án hoặc có nghĩa vụ thi hành án có thể tiếp tục tự do và lợi dụng tình trạng đó để phạm tội mới. Hành vi này không chỉ xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan tư pháp mà còn đe dọa trật tự an toàn xã hội, làm mất hiệu lực răn đe của bản án và ảnh hưởng tiêu cực đến niềm tin vào công lý.
- Dẫn đến người bị kết án, người phải thi hành án, người có nghĩa vụ thi hành án tẩu tán tài sản và không thi hành được nghĩa vụ thi hành án với số tiền từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng: Tình tiết này thể hiện hậu quả vật chất cụ thể do hành vi không thi hành án gây ra, được xác định qua giá trị tài sản bị tẩu tán. Trong quá trình thi hành án, người có thẩm quyền (như chấp hành viên, thủ trưởng cơ quan thi hành án…) có nghĩa vụ kịp thời phong tỏa, kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án. Việc tẩu tán tài sản trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng được xem là gây hậu quả nghiêm trọng vì làm mất khả năng thi hành nghĩa vụ tài chính, đồng thời ảnh hưởng đến tính nghiêm minh và uy tín của cơ quan thi hành án.
4.2. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 379:
- Dẫn đến người bị kết án, người phải chấp hành án tiếp tục thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: Đây là tình tiết thể hiện mức độ hậu quả đặc biệt nguy hiểm cho xã hội. Hành vi không thi hành án trong trường hợp này đã tạo điều kiện cho người bị kết án tiếp tục thực hiện tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cao hơn, như giết người, cướp tài sản, buôn bán ma túy, tham ô, nhận hối lộ… Điều này không chỉ gây thiệt hại lớn về tính mạng, tài sản, an ninh trật tự xã hội mà còn làm mất hiệu quả phòng ngừa và răn đe của bản án hình sự. Người có trách nhiệm thi hành án mà vì động cơ vụ lợi hoặc thiếu trách nhiệm nghiêm trọng để người phạm tội tái phạm đặc biệt nguy hiểm phải chịu hình phạt từ 05 đến 10 năm tù, thể hiện thái độ xử lý nghiêm minh của pháp luật đối với sự buông lỏng kỷ luật công vụ.
- Dẫn đến người bị kết án, người phải thi hành án, người có nghĩa vụ thi hành án tẩu tán tài sản và không thi hành được nghĩa vụ thi hành án với số tiền 1.000.000.000 đồng trở lên: Đây là tình tiết định khung tăng nặng cao nhất của tội danh, phản ánh thiệt hại vật chất đặc biệt lớn gây ra do hành vi không thi hành án. Người có thẩm quyền cố ý không thi hành hoặc không ra quyết định thi hành án dẫn đến việc người phải thi hành án tẩu tán tài sản có giá trị từ 1 tỷ đồng trở lên thì hậu quả không chỉ là thiệt hại tài sản cụ thể mà còn làm vô hiệu hóa toàn bộ quá trình thi hành bản án của Tòa án. Điều này gây mất mát lớn cho Nhà nước, tổ chức, cá nhân; ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin của xã hội vào tính công bằng và hiệu lực của pháp luật. Nhà làm luật quy định mức hình phạt từ 05 đến 10 năm tù cho tình tiết này nhằm bảo đảm tính răn đe mạnh mẽ, đồng thời khẳng định nguyên tắc mọi bản án đã có hiệu lực phải được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh.
5. Phân biệt Tội không thi hành án với Tội không chấp hành án:
Tiêu chí | Tội không thi hành án (Điều 379 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội không chấp hành án (Điều 379 Bộ luật Hình sự 2015) |
---|---|---|
Chủ thể thực hiện tội phạm | Là người có thẩm quyền trong việc ra quyết định hoặc tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án (ví dụ: Chánh án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, Trưởng cơ quan có thẩm quyền…). | Là người phải chấp hành bản án hoặc quyết định của Tòa án (cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ thi hành án). |
Hành vi phạm tội (mặt khách quan) | Bao gồm các hành vi: Không ra quyết định thi hành án hoặc không thi hành quyết định thi hành bản án, quyết định của Tòa án; hành vi phải thuộc một trong các trường hợp: đã bị kỷ luật mà tái phạm, để người bị kết án bỏ trốn, hết thời hiệu thi hành án hoặc để tẩu tán tài sản. | Bao gồm các hành vi: Có điều kiện thi hành nhưng cố tình không chấp hành bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, dù đã bị cưỡng chế hoặc xử phạt hành chính mà vẫn vi phạm; có thể chống lại chấp hành viên, dùng thủ đoạn tinh vi hoặc tẩu tán tài sản. |
Tính chất hành vi vi phạm | Hành vi xảy ra từ phía cơ quan, người có chức trách thi hành án; đồng thời làm cản trở hoặc làm mất hiệu lực của bản án, quyết định tư pháp. | Hành vi xảy ra từ phía người phải thi hành án; từ đó thể hiện sự chống đối và thái độ cố tình không tuân thủ phán quyết của Tòa án. |
Hậu quả pháp lý xã hội | Làm đình trệ hoạt động tư pháp, mất hiệu lực thi hành án, gây hậu quả nghiêm trọng như: người bị kết án bỏ trốn, hết thời hiệu, hoặc tẩu tán tài sản. Đồng thời còn ảnh hưởng uy tín của cơ quan thi hành án và tính nghiêm minh của pháp luật. | Gây khó khăn cho công tác thi hành án, làm giảm hiệu quả cưỡng chế thi hành bản án. Đồng thời còn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án và trật tự quản lý tư pháp. |
Mức độ lỗi | Lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ nghĩa vụ thi hành nhưng cố tình không thực hiện. | Lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội có khả năng chấp hành bản án nhưng cố tình trốn tránh hoặc không tuân thủ. |
Hình phạt chính | Khung 1: Phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 05 năm. | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. | Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
THAM KHẢO THÊM: